Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần C

Chổi đực dại

11:06 03/06/2017

Sida acuta Burm.f.

Tên đồng nghĩa: Sida carpinifolia L.f; S.scoparia Lour.

Tên khác: Bái nhọn, bái chổi.

Họ: Bông (Malvaceae).

Mô tả 

Cây thảo, mọc thành bụi, cao 0,8 - lm. Thân hóa gỗ ờ gốc, cỏ khía, gần như nhẵn. Cành mềm, dẹt. Lá mọc so le, hình mác, dài 2,5 - 6 cm, rộng 0, 5 - 2 cm, gốc tròn, đầu nhọn, mép khía răng nhọn, hai mặt nhẵn, gân chính 3, gân phụ mờ; cuống lá dài 5 - 7 mm, lả kèm cỏ 3 gân màu trang nhạt suốt dọc chiều dài.

Cụm hoa mọc ở đầu cành và kẽ lá; hoa màu vàng nhạt; đài hình cúp, nhằn ở mặt ngoài, 5 răng hình tam giác nhọn, mép có lông dạng mi; tràng 5 cánh hình tam giác đảo, dài hơn đài; nhị nhiều, cột nhị và chỉ nhị có lông; bầu nhẵn, hơi that lại ở đầu; vòi nhụy 5, tách ròi ở nửa phía trên.

Quả khô, 5 mảnh vỏ có gân mạng ở mặt bên, nổi rõ ở phần lưng, sừng hình chóp nhọn; hạt có lông ở đỉnh.

Mùa hoa:  tháng 3-7.

Phân bố, sinh thái

Ở Việt Nam, cây phân bố rộng rãi khắp nơi, từ vùng núi thấp (dưới 600m) xuống đến vùng trung du, đồng bằng và ra tận một số đào lớn thuộc nhiều tinh ờ cả miền Bắc lẫn miền Nam. Trên thế giới, loài này cũng phân bố ở nhiều nước nhiệt đới Châu Á, từ Ẩn Độ đến Trung Quốc và xuống các quốc gia khác ở vùng Đông Nam Á.

Chổi đực dại là loại cây ưa sáng, có thể chịu được hạn tốt. Cây thường mọc ờ đồi cây bụi, bờ nương rẫy, ven đường đi hay ờ các bãi hoang quanh làng bàn. Cây ra hoa quà nhiều hàng năm. Tái sinh tự nhiên tốt bằng hạt và mọc cây chồi từ phần gốc sau khi bị chặt phát nhiều lần.

Bộ phận dùng

Lá và rễ.

Thành phần hoá học

Rễ và phần trên mặt đất chứa cholin, p - phenylethyl - amin, quinazolin, tryptamin đã được carboxyl hoá, a - amyrin, ecdysteron, ephedrin, cryptolepin, campesterol, stigmasterol, acid oxalic.

Cành chứa p - sitosterol. Toàn cây chứa heraclenol, p - sitosterol, ligustrin. Ngoài ra còn có daucosterol, syringing. Toàn cây còn chứa tinh dầu 0,5 - 0,7%. Tinh dầu chứa 35% thuyon và a - pinen, 4% limonen, 15% cineol, 11% ylangen.

Nhiều nguyên tố có trong lá: Cd, Zn, Pb.

[Trưòng đại học Dược Trung Quốc. Trung dược từ hải III, 1999, 95; Võ Văn Chi. Từ điển cây thuốc, 1997; Ram Rostogi et al., Compendium. Indian Medicinal Plants I, 1999, 625; V, 1999, 780; CA 113, 1993: 269932: CA 120,1994: 240070 n]

Tác dụng dược lý

1. Tác dụng chống sốt rét

Đã thử tác dụng chống sốt rét của 4 cây thuốc vẫn đưọc các thầy thuốc ở Burkina Faso chữa bệnh sốt rét là chổi đực dại (toàn cây), xà cừ, một loại giáng hương Pterocarpus erinaceus và một loại trâm bầu.

Combretum micranthum trên ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum phân lập từ bệnh nhân bị sốt rét trên lâm sàng.

Kết quả: Cao chiết nước toàn cây chổi đực có tác đụng mạnh nhất với IC50 < 5 ng/ml; nhựa cây p. erinaceus có tác dụng kém hơn với IC50 >10 P-g/ml; 2 cây còn lại tác đụng không rõ rệt (Karou, Dỉcko et al., 2003).

Một công trình khác ở Pháp cũng nghiên cứu tác dụng chống sốt rét của cây chổi đực dại dựa vào các thầy lang ở nước Bờ Biển Ngà và Nigeria vân dùng cây này để chữa sốt rét. Cao chổi đực dại được chế bằng cách lấy toàn cây, nghiền thành bột, rồi chiết bằng cách sắc với nước như các thầy thuốc Nigeria vẫn tiến hành. Ngoài ra còn chiết với ethanol để được cao ethanol. Cao chổi đực dại đã được thử trên 2 chủng Plasmodium falciparum: chùng kháng chloroquin ở Cameroon FcM29 và chủng nhạy với chloroquin ở Nigeria.

Kết quả: Cà 2 cao nước và cao ethanol đều có tác dụng ức chế Plasmodium falciparum, IC50 với chùng kháng cliloroquin ở Cameroon là 3,9 |ug/ml và với chùng nhạy chloroquin ở Nigeria là 5,4 p.g/ml. Đã xác định được tác dụng kháng ký sinh trùng sốt rét p. falciparum của cây chổi đực là do trong chổi đực có alcaloid cryptolepin (Banzouri, Prado et al., 2004).

2. Tác dụng bảo vệ gan

Đã đánh giá tác dụng bảo vệ gan cao methanol cùa rễ cây chổi đực dại dùng mô hình gây độc gan bằng paracetamol liều cao ở chuột cống trang và mô hình thời gian ngủ do hexobarbiton. Thí nghiệm được tiến hành trên 3 lô:  lô 1, đối chứng sinh lý, không dùng thuốc cũng không dùng paracetamol; lô 2, gây tổn thương gan bằng paracetamol liều cao và không dùng thuốc; lô 3, đùng thuốc rồi dùng paracetamol như lô 2.

Kết quả: Trên mô hình gây tổn thương gan bằng paracetamol ờ chuột cống trắng, ở lô 2, chuột bị tổn thương gan, các thông số AST, ALT, phosphatase kiềm và bilirubin tăng rất mạnh. Xét nghiệm mô bệnh học gan ở lô 2, thấy gan bị tổn thương, có nhiều 0 thâm nhiễm và hoại tử rất rõ so với lô 1. Ở lô 3 có dùng cao rễ cây chổi đực dại, tất cả các thông số hoá sinh và mô bệnh học gan đều giảm có ý nghĩa so với lô 2. Trên mô hình đánh giá thời gian ngủ do hexobarbiton ở chuột nhắt trắng, ở lô 2 dùng paracetamol liều cao và không dùng thuốc, thời gian ngủ do hexobarbiton kéo dài có ý nghĩa so với lô 1 là do paracetamol làm gan tổn thương, nên sự chuyển lioá cùa hexobarbiton kém, làm cho nồng độ hexobarbiton tồn tại trong cơ thể lâu hơn, nên giấc ngủ kéo dài hơn. Ở lô 3, do cao chổi đực dại có tác dụng bào vệ gan, nên hexobarbiton bị clniyển hoá nhanh hơn, dẫn đến thời gian ngủ rút ngắn có ý nghĩa so với lô 2.

Kết luận: Rễ cây chổi đực dại có tác dụng bảo vệ gan và việc dùng rễ chổi đực để chữa bệnh gan của nhân dân Ân Độ là có cơ sở khoa học (Sreedevi, Latha et al., 2009).

3. Tác dụng giải độc nọc rắn

Đã sàng lọc 72 cây thuốc mà các thầy lang ở Colombia cho là có tác dụng trị rắn cắn trên nọc độc cùa Bothrops atrox (BA) ở chuột nhắt trắng. Trước hết xác định LD50 của BA đường tiêm phúc mạc ờ chuột nhắt trắng LD50 = 66,2fig/20g chuột. Các thuốc nghiên cửu đưọc nghiền riêng từng loại thành bột, chiết vói ethanol, thu hồi dung môi, rồi cô dưới áp suất giảm đến thể chất cao khô. Mỗi cao đưọc pha thành dung dịch nồng độ 2% (20 mg/ml), nọc BA được pha thành dung dịch 0,05% (0,5 mg/ml). Trước khi tiêm cho chuột, trộn 2 dung dịch trên đồng thể tích, ủ, rồi tiêm phúc mạc cho chuột liều là 0,4 mi cho 20g chuột, tính ra liều của cao cho mỗi chuột 20g là 4mg và 99,3|^g nọc BA. (bằng 1,5LD50).

Kết quả: Ở lô không dùng thuốc (thay dung dịch cao bằng NaCI 0,9% với cùng thể tích) số chuột sống sót là 10 - 30% (đã dùng nhiều lô). Có 7 cây cho tỷ lệ chuột sống là 100%, 6 trong số đó chưa thấy có ờ Việt Nam, 1 có ở Việt Nam là quả chín của cây chanh kiên Citrus liminia Osbeck. Có 4 cây cho tỷ lệ chuột sống 45 - 80% là toàn cây chổi đực dại, lá và cành cây điều nhuộm, còn 2 cây chưa thấy ỏ' Việt Nam. Cũng đã nghiên cứu dùng riêng cao và nọc độc. Cao (chỉ nghiên cứu 11 cây có tác dụng trong thí nghiệm trên) được dùng uống hoặc tiêm phúc mạc 60 phút trước khi gây chết chuột bàng tiêm bắp một liều bằng 1,5LD50 là 204|ag cho một chuột 20g (LD50 ỏ' đây là tiêm bắp, khác với LD50 trong thí nghiệm trên là tiêm plnìc mạc).

Kết quả: Các cây chanh kiên (quả chín), chổi đực dại (toàn cây) và Dracontium croatii (thân rễ) cho tỷ lệ chuột sống rất cao so với lô chứng và các cây khác (Otero, Nunez et ai., 2000).

4. Tác dụng chống xuất huyết cùa chổi đực dại do nọc rắn

Đã sàng lọc 75 cao từ các cây khác nhau mà các thầy lang Colombia vẫn dùng đế chữa ran can trên tác dụng xuất huyết do nọc của loài Bothrops atrox (BA).

Trước hết, xác định ở chuột nhắt trắng liều tối thiểu gây xuất huyết cho chuột bằng cách tiêm trong da một lượng nọc độc BA thấp nhất mà vẫn thấy máu rỉ ra ở chỗ tiêm. Liều này đã xác định được là l mg, nhưng khi thí nghiệm đã dùng một liều là 10mg (gấp 10 lần).

Trộn 4mg và 10mg nọc BA, ủ, rồi tiêm trong da cho chuột và theo dõi sự xuất huyết từ nốt tiêm này.

Kết quả: Ở lô đối chứng không có cao thử, 100% chuột bị xuất huyết. Ở lô có cao nghiên cứu, thấy 12 trong 75 (16%) cao thử không có xuất huyết; 19 trong 75 cao (25%), tỷ lệ chuột bị xuất huyết trong lô là 21 - 75%, trong đó có cao chổi đực dại (toàn cây). Khi dùng cao riêng (không trộn vào vói nọc BA), cho chuột uổng, tiêm phúc mạc hoặc tiêm tĩnh mạch, sau đó mới tiêm trong đa 10(ig nọc BA, 19 trong 75 cao đã thử (25%) không thấy chuột bị xuất huyết (Otero, Nunez et al., 2000b). 

5. Tác dụng kích thích tim

Cao toàn cây chổi đực dại (chiết bằng ethanol 50%) có tác dụng kích thích, làm tăng co bóp tim chuột lang cô lập (Dliar et al., 1969). Rễ chổi đực dại có ephedỉn (0,07%), một tluiốc kích thích thần kinh giao cảm nên gây kích thích tim và tăng huyết áp. Các bộ phận trên mặt đất cùa cây chổi đực dại và cả rễ còn có cryptolepin [Van Valkenburg et al., 2001, vol. II: 496],

6. Tác dụng trên cơ trơn

Phần tan trong nước của cao ethanol toàn cây chổi đực dại gây tác dụng co thắt trên chế phẩm CO' trơn cô lập như hồi tràng, khí quàn Và tử cung của động vật thực nghiệm. Như vậy tác dựng của cao tương tự tác dụng của acetylcliolin. Hai tác dụng kích thích giao cảm (mục 5) và kích thích phó giao cảm (mục này) đối lập nhau, tuy dạng chiết để thử có khác nhau, nhưng cũng cần nghiên cứu thêm.

7. Tác dụng kháng khuẩn

Hạt chưa xử lý (như ủ cả cây có hạt hoặc ủ với phân súc vật) chỉ thu hái và phoi khô rồi chiết cao có tác dụng kháng khuẩn trên Bacillus subitis, Escherichia coỉi, Pseudomonas cichorii và Salmonella typhinnirium [Van Valkenburg et al., 2001, vol.II: 496],

8. Tác dụng trên côn trùng

Cao lá chổi đực dại ức chế mạnh sự ăn và gây độc trên ấu trùng cùa loại côn trùng Earias vitleila [Van Valkenburg et ai., 2001, vol.II: 496],

9. Sự dung nạp thuốc

Cao ethanol toàn cây chổi đực dại có liều dung nạp tối đa là 500 mg/kg ở chuột nhắt trắng (liêu tối đa mà chuột không có biểu hiện độc) dùng đường tiêm phúc mạc (Dhar et al., 1969).

Tính vị, công năng

Rễ cây chổi đực dại có vị đáng, se, tính mát, có công năng làm mát, hạ sốt, lợii tiểu, làm ra mồ hôi, lợi tiêu hoá. Lá có vị đắng, có công năng làm dịu và làm tan sưng.

Ở Trung Quốc, chổi đực dại được cho là có vị hơi cay, tính mát [TDTH, 1997, vol. 3: 55], Sách "Toàn quốc Trùng thảo dược hội biên" ghi: chổi đực dại vị ngọt, nhạt, tính bình, có công năng thanh nhiệt giải độc, thu liễm sinh cơ, tiêu thũng chỉ thống [Van Valkenburg et al., 2001, vol.II: 496],

Ở Ẩn Độ, rễ chổi đực dại được cho là có vị chua, đắng ngọt, có công năng thanh nhiệt, giúp tiêu hoá và lợi tiểu [Kirtikar et al., 1998, vol.I: 305].

Công dụng

Rễ cây chổi đực dại dùng làm thuốc bổ đắng, giúp ăn ngon, cũng dùng để trị đau thần kinh. Rễ và lá sắc uống cho mát, chữa sốt, thông tiểu, lá giã nát, đắp chữa ung nhọt, sưng đau. Dùng trong, ngày 15 - 30g lá và rễ sắc uống.

Ở Papua Niu Ghinê (Châu Đại Dương), rễ rửa sạch, cạo sạch lớp vỏ ngoài của vỏ rễ, nhai ngày 2 - 3 lần, để cliĩía ỉa chày. Lá phơi khô, đun sôi vói nước, lấy nước uổng để chữa đau dạ dày (David Holdworth, 2001).

Ở Indonesia, rễ chổi đực dại được dùng trị ho, lá để chữa sưng phồng và chữa ho [Med.herb index 1995: 85], Ở Campuchia, lá và rễ tươi giã nát đắp để làm dịu, chống lở loét ngoài da, đắp lên nhọt áp xe để chóng mưng mủ và để chữa đứt tay, chân. Nước sắc lá và rễ để điều trị sốt, ho, đau ngực, bất lực, bệnh lậu; sắc đặc để clũra trĩ và súc miệng để chữa đau răng [Perry et al., 1980: 255],

Ở Mianma, rễ đắng, sắc uống để bổ tim và kiện vị. Ở Đài Loan, nước sắc thân và lá để chữa cúm [Perry et al., 1980: 255]. Ở Philippin, nước sắc của lá và rễ chổi đực dại được dùng trị trĩ, bất lực và tẩy giun đường ruột. Rễ làm thuốc bổ đắng được dùng làm mạnh dạ đày và ra mồ hôi: hạt được dùng khi các tuyến sưng to vả sưng phồng do viêm, một số vùng ở Philippin được dùng chữa nôn ra máu [Van Valderburg, 2001, vol.II: 496].

Ở Ẩn Độ, rễ chổi đực dại được dùng trị đau dây thần kinh, chữa sốt, làm ra mồ hôi, thông tiểu và bệnh đường tiết niệu. Cũng dùng trị đau do viêm ruột mạn tính, đau dạ dày. Nước sắc rễ (hoặc uống bột rễ tản mịn, mỗi lần 1 thìa cà phê, ngày 2 lần) để làm thuốc bổ đắng, giúp ăn ngon, đùng cho người có thể trạng yếu và để kích dục [Srivastava, 1989: 132]. Lá tươi giã nát (có thể làm nóng hay không) làm thành bánh, đắp lên mụn nhọt, áp xe để làm nhanh võ mù, đắp lên mắt để chữa viêm mắt hoặc đắp lên chỗ sưng phồng ngoài da và bệnh phù chân voi. Lá giã nát, lấy dịch để rửa các vết lở loét ngoài da. Nước sắc lá uống để chữa trĩ, bất lực, đau ngực và tẩy giun [Chopra et al., 2001: 226], [Nadkarni, 1999: 1134], Ở vùng Bengal (Ẩn Độ), dịch ép lá được dùng dưới dạng thuốc tễ để chữa giun đường ruột, còn dùng chữa bệnh hoa liễu. Lá tươi nghiền nát đắp lên chỗ thâm tím ngoải đa, hoặc làm thành bánh, đặt vào 2 lòng bàn tay cùa phụ nữ có thai chết lưu để đẩy thai ra khỏi tử cung; cũng được dùng để gây sẩy thai. Lá chổi đực dại tươi rửa sạch, nghiền trong nước, lấy nước thụt cho trẻ em bị liệt, dùng nhiều lần, giúp cho trè đi được [Kirtikaretal., 1998, vol. 1: 305],

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC