Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần C

Cúc Gai Dài

12:07 10/07/2017

Silybum marianum (L.) Gaertn.

Tên đồng nghĩa: Canimis marianus L.

Tên khác: Cúc gai, kế sữa, nhũ kế.

Tên nước ngoài: Mary thistle, milk thistle. Lady's thistle (Anh); cliardon Marie, chardon Notre Dame, cliardon argenté (Pháp). 

Họ: Cúc (Asteraceae).

 Mô tả

Cây thảo, sống hai năm, cao 0.3 - 1 m, có thể hơnn. Rễ hình trụ, to và dài. Thân mọc thẳng, phân nhánh nhiều. Lá mọc so le, không cuống, ôm thân, màu lục bóng, mặt trên thường điểm những đốm trắng dọc theo các gân, mặt dưới nhạt, mép có khía răng không đều dạng gai nhọn và màu vàng; các lá ở gần gốc to bản, chia thuỳ không đều.

Cụm hoa mọc ở ngọn thành đầu tròn, đường kính 3-8 cm; lá bắc ngoài và lá bắc giữa có phần phụ hình tam giác màu lục, tạo thành một gai to, mỗi bên lại mang 4 - 6 gai nhỏ ngắn ở gốc; hoa đều màu tím tía hay tím hồng, cánh hoa 5, nhị 5, bầu 1 ô có hai lá noãn.

 Quả bế, màu đen bóng, hơi có viền vàng.

Mùa hoa quả: tháng 5-8.

Phân bố, sinh thái

Chi Silybam Adans trên thế giới chỉ có 2 loài s marianus (L.) Gaertn. và s. eburineum Coss. et Durr. Loài s. mariamnn (L.) Gaertn. được Viện Dược liệu nhập hạt giống từ Hungary, vào cuối những năm 70 của thế kỷ trước. Do ở đầu các răng cưa của mép lá và lá bắc ở cụm quả có gai nhọn dài, nên cây thuốc này dược Viện Dược liệu đặt tên là "Cúc gai dài" nhằm tránh nhầm lẫn với các loài cúc khác.

Cúc gai dài vốn có nguồn gốc ở vùng Địa Trung Hải của châu Âu, sau cây phát tán tự nhiên và được trồng cả vùng Nam Âu,  Bắc Phi, Trung Đông và cả ở Bắc Mỹ. Ở Việt Nam, khi mới nhập hạt giống về, Viện Dược liệu đã gieo trồng thử ở Trại thuốc Văn Điển (ngoại thành Hà Nội) và Trại thuốc Sa Pa - Lào Cai (đều thuộc Viện Dược liệu). Kết quả, cây trồng ở cả 2 nơi đều ra hoa, nhưng chỉ có ở Sa Pa cây cúc gai dài sinh trưởng phát triển tốt, hoa đậu quả cho hạt chắc, còn cây trồng ở Trại thuốc Văn Điển, có hạt thường lép. Vì thế về sau, cúc gai dài chỉ còn trồng giữ giống ở Trại thuốc Sa Pa - Lào Cai (Viện Dược liệu).

   Cúc gai dài thuộc loại cây thảo sống 1 - 2 năm. Cây ưa sáng, ưa ẩm và sinh trưởng phát triển tốt ờ vùng núi có nền khí hậu mát mẻ quanh năm. Cây trồng ở Sa Pa (Lào Cai) đã tỏ ra thích nghi với nền nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 15,2°c, lượng mưa khoảng 2800 mm/năm. Mùa hoa đúng vào thời kỳ có nhiệt độ cao nhất ờ Sa Pa, nghĩa là vào tháng 5 - 6 (22 - 24°C). Trên một cụm hoa, các hoa ở dưới nở trước các hoa ở trên. Dự đoán sự thụ phấn xảy ra vào khoảng từ 9 giờ sáng đến 12 giờ trưa. Lưu ý rằng, cây trồng ở Sa Pa - Lào Cai, đến năm thứ 2 mới ra hoa quả. Hạt cúc gai dài là nguyên liệu để sản xuất thuốc chữa bệnh về gan. Cây dễ dàng trồng bằng hạt. Tuy nhiên, từ khi nhập vào Việt Nam chưa có sự nghiên cứu đầy đủ về kỹ thuật trồng: về giống nhất là lựa chọn vùng trồng thích hợp cho hàm lượng silimarin trong hạt cao. Đây là nlũrng vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới.

Bộ phận dùng

Toàn cây hoặc quả. 

Tác dụng dược lý

1. Tác dụng bảo vệ gan chống lại các tác nhân gây độc gan

 Có rất nhiều công trình nghiên cứu tác dụng bảo vệ gan của cao cúc gai, silymarin, cũng như từng flavonolignan như silybin, isosilybin, silychristin, silydianin chống lại các tác nhân gây độc hại gan.

Nhiều công trình đã gây tổn thương gan và xơ gan bằng carbon tetraclorid (CCl4). Silymarin chống lại được tổn thương gan chuột cống trắng do CCl4 (Favari et al., 199) là do bảo vệ được màng tê bào gan (Murriel et al., 1990a), làm giảm sự peroxy hoá lipid màng tế bào gan ở chuột cống trắng (Batako, 2001) và chuột nhắt trắng (Letteron et al., 1990). Khi dùng liều CCl4 cao và kéo dài sẽ dẫn đến xơ gan. Silymarin làm giảm được xơ gan (Mourelle et al., 1989) là do ức chế hoạt tính của ATPase (Murriel et al., 1990b) và chống lại sự giảm hồng cầu do CCl4 (Mourelle et al., 1991).

Nấm Amanita phalloides và các hoạt chất trong nấm như a - amanitin, phalloidin, amatoxin là những tác nhân gây tổn thương gan rất mạnh. Thực nghiệm đã chứng minh silymarin (Desplaces et al., 1975) và silybin (Choppin et al., 1978) đều có tác dụng bảo vệ gan, chống lại nhiễm độc do phalloidin. Khi tiêm tĩnh mạch muối natri hemisuccinat của silybin (liều 50 mg/kg thể trọng) cho chó đã bị gây độc bằng liều dưới liều chết của nấm Amanita phalloides (85 mg/kg thể trọng) làm giảm được các enzym gan trong máu (Floersiieim et al., 1978). Sự thu nạp của amatoxin (dimethyl phalloidin) và tế bào gan chuột cống trắng bị ức chế 79%, nến gan cô lập đã được xử lý với silybin ester ở nồng độ 100 μg/ml (Faulstich et al., 1980). Tác dụng điều hoà tính thấm màng tế bào và màng ty thể của silymarin có liên quan đến tính ổn định của màng chống lại sự thâm nhập của độc tố từ ngoài vào (Munter et al., 1986).

  Silymarin tác động mạnh nhất lên hệ thống vận chuyển phalloidin vào trong tế bào gan. Tương tự như vậy, silybin cũng ức chế sự vận chuyển amatoxin vào trong tế bào gan (Faulstich et al., 1980). Silymarin cũng bảo vệ được gan chống lại nhiễm độc gan do ethanol ở chuột nhắt trắng (Song et al., 2006) hoặc chuột cống trắng. Nguyên nhân một phần là do thuốc làm giảm sự peroxy hoá lipid ở gan (Valenzuela et al., 1985). Nghiên cứu trên 12 khỉ đầu chó (baboon) cho ăn một chế độ ăn thích hợp nhưng có thêm ethanol trong 3 năm, một lô dùng Silymarin và một lô không dùng. Kết qủa cho thấy silymarin làm chậm sự phát triển xơ gan do etlianol ở khỉ (Lieber et al., 2003). Dùng paracetamol liều cao cũng gây ra tổn thương gan cho chuột nhắt trắng và chuột cống trắng. Silymarin và silybin đều có tác dụng bảo vệ gan, chống độc gan do paracetamol (Murriel et al., 1992) làm giảm sự peroxy hoá lipid và ức chế sự tiêu hao glutathion ở gan chuột (Campos et al., 1989).

 Silymarin và silybin còn có tác dụng bảo vệ gan, chống lại nhiều tác nhân khác gây tổn hại gan như phenylhydrazin (Valenzuela et al., 1985; 1987), tert - butyl hydroperoxyd (Valenzuela et al., 1986; Joyeux et al., 1990), galactosamin (Tyutyulkova et al., 1983), anthracyclin (Chlopcikova et al., 2004), các hydrocarbon thơm nhiều vòng khác (Meiss et al., 1982), microcvstin (Mereish et al., 1991), halotlian (Siegers et al., 1983). Cơ chế tác dụng đã được chứng minh là do chống sự peroxy hóa lipid, ức chế sự tiêu hao glutathion, hoặc phục hồi lại được sự tổng hợp protein, làm giảm hoạt tính enzym gan đã bị tăng do các chất gây tổn thương gan.

2. Túc dụng chống xơ hoá gan

Các tế bào hình sao của gan có vai trò trong quá trình xơ hoá gan. Khi bị tác động bởi các tác nhân gây xơ hoá (ví dụ như dùng lâu dài ethanol hoặc CCl4), chúng tăng sinh và chuyển dạng thành các nguyên bào sợi, dẫn đến lắng đọng các sợi collagen trong gan (Fuchs et al., 1997). Silybin ở nồng độ 100 μmo/lít làm giảm 75% sự tăng sinh của tổ bào hình sao cô lập từ gan chuột cống trắng, làm giảm sự chuyển dạng của chúng thành các nguyên bào sợi và giảm thành phần các chất ở gian bào cần thiết cho quá trình xơ hoá (Fuchs et al., 1997).

 Trên mô hình gây tổn thương gan mạn tính bằng CCL4 hàm lưọng collagen trong gan chuột cống trắng tăng lên gần 4 lần so với lô đối chứng sinh lý. Silymarin với liều uống 50 mg/kg mỗi ngày trong 5 ngày, làm giảm hàm lượng collagen gan 55% so với lô đối chứng bệnh lý (Favari et al., 1997). Trong một thí nghiệm khác, sự tăng hàm lượng collauen và procollagen III, do tắc đường dẫn mật ở chuột cống trắng, bị giám 30% ở lô dùng silymarin với liều 50 mm/kg mỗi ngày, nhưng liều dùng 25 mg/kg lại không có tác dụng (Boigk ct al., 1997). Như vậy, silymarin chỉ có thể ức chế sự hình thành collagen ở liều cao (Mourelle et al., 1989).

3. Tác dụng kích thích tái tạo gan

Một trong những cơ chế giúp giải thích tác dụng kích thích tái tạo mô tế bào gan của Silymarin là gây tăng tổng hợp protein ở gan bị tổn thương. Các nghiên cứu in vivo và in vitro trên gan chuột đã bị cắt một phần cho thấy silybin làm tăng một cách có ý nghĩa sự hình thành ribosom sự tổng hợp ADN cũng như tổng hợp protein. Đặc biệt là silibinin chỉ thể hiện tác dụng này ở gan bị cắt một phần, mà không xảy ra ở chuột bị u gan hoặc dòng tể bào bị u ác tính (Sonnenbichler et al.. 1986).

Silibinin làm phục hồi lại đáp ứng miễn dịch tế bào sau khi cắt một phần gan (Horvath et al., 2001 ). Silimarin kích thích tổng hợp ARN ở  huyết thanh và mật (Lorenz et al., 1984). Silybin, một flavonolignan làm tăng tổng hợp ARN ribosom ở gan chuột cống trắng và trong tế bào nuôi cấy lên 20%, thông qua hoạt hoá enzym ARN polymerase I phụ thuộc ADN (Sonnenbichiler et al., 1987). Silybin liên kết với phần điều hoà của ARN polymerse I phụ thuộc ADN tại vị trí găn estrogen, nhờ đó, tác dụng như một tác nhân steroid tự nhiên, hoạt hoá enzvm và làm tăng mức tổns hợp ARN ribosom (Sonnenbichiler et al., 1992). Silybin không có tác dụng trên các enzym ARN polymerase II và III. Sự tăng tông hợp ARN ribosom trong gan, kích thích sự hình thành ribosom trưởng thành và sinh tổng hợp protein (Sonnenbichiler et al„ 1987).

Đây có thể là cơ chế chính của tác dụng kích thích tái tạo tế bào gan của silybin.

4 Tác dụng trên lipid và lipoprotein trong huyết tương và gan

Gan đóng một vai trò rất quan trọng trong điều hoà và chuyển hoá lipoprotein trong huyết tương, nên khi gan bị tổn thương thưowfng dẫn đến rối loạn lipoprotein huyết. Bằng thực nghiệm cho thấy, do silymarin bảo vệ được chức năng gan, nên điều hoà được lipoprotein trong huyết tương. Đồng thời, silymarin còn có tác dụng trực tiếp trên chuyển hoá cholesterol, ức chế sinh tổng hợp cholesterol (Skottova et al., 1998a). Silybin kích thích tổng hợp phosphatidyl cholin và làm tăng hoạt tính enzym cholinphosphat cytidyltransferase ở gan chuột cả trong điều kiện bình thường hoặc sau khi bị nhiễm độc bằng galactosamin (Schriewer et al., 1979).

 Silymarin có tác dụng chống tăng cholesterol huyết, một phần nhờ ức chế sự hấp thu cholesterol ở chuột cống trắng được cho ăn chế độ giàu cholesterol (Skottova et ai., 2003). Tác dụng làm giảm cholesterol huyết của silymarin tương đương với probucol, nhưng khác probucol ở chỗ, silymarin còn gây tăng HDL - cholesterol (cholesterol liên kết với lipoprotein tỷ trọng cao, là loại cholesterol tốt) và làm giảm hàm lượng cholesterol gan (Krecman et al., 1998; Sobolova etal.,2006).

Silibinin ức chế sinh tổng hợp cholesterol ở tế bào gan. Hoạt độ enzym 3 - hydroxy - 3 - methylglutaryl coenzym A (HMG - CoA) reductase, một enzym đóng vai trò chủ yếu trong tổng hợp cholesterol cũng bị sỉlybin dihemisuccinat. Ở chuột cống trắng, nồng độ cholesterol và phospholipid trong mật giảm có ý nghĩa khi tiêm trong màng bụng silybin với liều 100 nm/kg thể trọng mỗi ngày trong 7 ngày (Wassuato et al„ 1991). Silybin làm giảm rõ rệt sự tăng lipid toàn phần và triglycerid ở gan chuột cống trắng do carbon tetraclorid gâg ra (Mourelle et al„ 1989). Silymarin làm tăng sự liên kết của LDL (lipoprotein tỷ trọng thấp) vào tế bào gan, nên làm giảm nồng độ LDL trong huyết tương (Skottova et al., 1998a). Đồng thời silymarin còn làm tăng sự oxy hoá LDL, trong đó chất sảy ra oxy hoá LDL chủ yếu là do silybin, còn các flavonolignan khác như silychristin và silydianin đóng góp không đáng kể vào tác dụng này (Skottova et al„ 999).

5. Tác dụng chống oxy hóa

Các tác nhân gây tổn thương gan thường là những chất gây ra trạng thái tăng oxy hoá trong cơ thể, làm tăng peroxy hoá lipid màng tế bào, tạo ra các anion superoxyd và nhiều loại gốc tự do khác. Đồng thời làm giảm tiềm năng chống oxy hoá của cơ thể như làm giảm glutathion, giảm hoạt tính glutatliion reductase, giảm enzym superoxyd dismutase.

 Bằng thực nghiệm, đã chứng minh silymarin có tác dụng chống oxy hoá (Cavallini et al., 1978); các cao giàu phenolic của cúc gai làm giảm stress oxy hoá do chế độ ăn có nhiều đường (Skottova et al., 2004); silymarin có tác dụng bảo vệ chống lại stress oxy hoá ở não chuột cống trắng (Nencini et al., 2006) cũng như stress oxy hoá do H2O2 ở tế bào sừng của người và nguyên bào sợi chuột nhắt trắng (Svobodova et al., 2006). Tác dụng chống oxy hoá của silybin trong các hệ hoá sinh khác nhau là do cấu trúc của chất này (Varga et ai., 2006).

Các flavonolignan của cúc gai dài có tác dụng chống peroxy hoá lipid ở tế bào gan và microsom gan của chuột cống trắng (Bosisio et al., 1992); silymarin và các flavonolignan cúc gai làm giảm peroxy hoá lipid ở ty thể và microsom của tim chuột cống trắng (Psotova et ai., 2002) cũng như ở tiểu cầu người (Koch et al.. 1985).

Silybin và dehydrosilybm ức chế hoạt tính xúc tác của cytochrom P450 1A1 ở tế bào sừng và tế bào u gan của người (Dvorak et al., 2006); silybinin cũng có tác dụng ức chế cytochrom P450 ở microsom gan người (Beckman et al., 2000); nhưng silymarin lại không có ảnh hưởng đến cytochrom P450 2E1 (Mimiez et al., 1994).

Silybinin ức chế sản sinh gốc anion Superoxyd và nitric oxyd (NO) ở tế bào Kupffer chuột cống, trắng cô lập với nồng độ cần để ức chế được 50% IC50 là 80 nmol/lít (Dehmlov et al., 1996a). Silybin ức chế giải phóng anion Superoxyd được tạo nên do phorbol myristat acetat ở bạch cầu trung tính và ức chế hoạt tính enzym xanthin oxydase (Varrga et al., 2001).

Một trong các cơ chế bào vệ gan của cúc gai dài là khả năng dọn gốc tự do. Silybinin dihemisuccinat quét dọn được các loại oxygen phản ứng (reactive oxygen) (Mira et al., 1994) và ức chế sự chuyển hoá acid arachidonic ở tế bào của người (Dehmlov et al., 1996b). Silymarin và silybin trung hoà được các gốc oxygen (Pascual et al., 1993), cũng như các gốc hydroxyl (Mira et al., 1987); silibinin cũng dọn được các gốc tự do ở hồng cầu người trong thí nghiệm in vitro (Altoray et al., 1992).

Khả năng chống oxy hoá của silymarin còn do thuốc làm tăng hoạt độ của Superoxyd dismlitase (SOD) ở hồng cầu người (Altoray et al., 1992), làm tăng hàm lượng glutathion nội bào trong gan, ruột, thận và dạ dày chuột cống trắng (Skottova et al., 2004; Valenzuela et al.. 1989). Trên chuột nhắt trắng, silymarin kích thích hoạt tính enzym glutathion - S - transferase ở gan, phổi, dạ dày, da và ruột non theo cách phụ thuộc liều (Zliao et al. 1999). Trên người bị xơ gan do rượu, silymarin cũng làm tăng rõ rệt hoạt độ enzym SOD (Feller et al., 1988).

6. Tác dụng trên hệ miễn dịch, chống viêm, dị ứng

Silymarin và các flavonoliunan của cúc gai dài có tác dụng điều hoà miễn dịch và ức chế miễn dịch. Sau khi cắt gan một phần, silybinin có phối hợp với vitamin E phục hồi lại đáp ứng miễn dịch tế bào (Horrvatli et al., 2001), chức năng của bạch cầu đa nhân của người được điều hoà dưới tác dụng của silybin (Minenzio et al., 1988).Trong những trạng thái có sự thay đổi của hệ miễn dịch, silymarin có thể làm cho một số thông số của hệ miễn dịch phục hồi lại gần với bình thường (Amirgliofran et al., 2000; Wilasrusmee et al.. 2002b).

  Khi hoạt hoá yếu tố NF - kappa B bằng phorbol ester, lipopolysaccliarid, acid okadaic hoặc ceramid, silymarin phong bế được yếu tố gây hoại tử u TNF (tumor necrosis factor), làm giảm hàm lượng oxygen phản ứng và peroxy hoá lipid (Manna et al., 1999). Silybinin ức chế chức năng của tế bào Kupffer ở gan, làm giảm sự sản sinh ra anion Superoxyd, nitric oxyd (NO), ức chế lipoxygenase và prostaglandin synthetase. Nồng độ silybinin cần để giảm anion Superoxyd và NO là IC50 = 80 μmol/lít, trong khi IC50 để ức chế 2 enzym chỉ cần 15 μmol/lít (Dehmlow et al., 1996a). Silybinin có tác dụng ức chế miễn dịch ở chuột nhắt trắng bị tổn thương gan, gây ức chế yếu tổ hoại tử u TNF, làm giảm interferon γ, IL - 4,  IL - 2, giảm tổng hợp NO và ức chế sự hoạt hoá yếu tố NF - kappa B trong gan (Schumann et al„ t , 2003) Nghiên cứu ở chuột nhắt trắng đực dòng BALB/c, tiêm trong màng bụng silymarin với các liều 10, 50 hoặc 250 mg/kg/ngày trong 5 ngày cho thấy, silymarin ức chế chức năng lympho bào T ở các liều thấp, nhưng ở liều cao 250 mg/kg lại kích thích quá trình viêm (Johnson et al., 2003).

Silymarin có tác dụng chống viêm trên nhiều mô hình viêm cấp thực nghiệm và ức chế sự di cư của bạch cầu ra ngoài mạch máu (De La Puerta et al., 1996). Silymarin cũng có tác dụng chống viêm cấp tính và tác dụng chống viêm khớp thực nghiệm ở chuột cống trắng. Một trong những cơ chế cùa tác dụng chống viêm là do ức chế 5 - lipoxygenase (Gupta et al„ 2000). Enzyin 5 - lipoxygenase xúc tiến chuyến hoá acid arachidonic thành các leukotrien gây ra các phản ứng viêm, dị ứng và phản xạ.

Từ 1979, đã phát hiện được silymarin là một chất ức chế 5 - lipoxygenase (Fiebrich et al„ 1979a), sau đó thấy silybin cũng có tác dụng này (Lin et al., 1989). Những nghiên cứu về tác dụng bảo vệ dạ dày, chống loét dạ dày có.thể có liên quan đến tác dụng ức chế lipoxygenase cùa silymarin (Alarcon et al., 1995; 1992). Cũng đã xác định được silymarin có tác dụng ức chế hoạt tính của enzym prostaglandin synthetase (Fiebrich et al., 1979b) là enzym xúc tác sự chuyển hoá của acid arachidonic thành prostaglandin, tức là silymarin có tác dụng ức chế tổng hợp prostaglandin trong đó có prostaglandin E2 là một chất gây viêm mạnh (Kang et al., 2004).

7. Tác dụng chống đái tháo đường

Cao chiết bằng nước của phần trên mặt đất cây cúc gai đài đã được nghiên cứu trên glucose huyết của chuột cống trắng bình thường và chuột bị đái tháo đường do streptozotocin (STZ). Với liều uống của cao là 20 mg/kg dùng 1 lần hoặc hàng ngày trong 15 ngày, glucose huyết ở cả 2 lô đều giảm có ý nghĩa, nhưng insulin huyết lại không bị ảnh hưởng. Như vậy cao cúc gai dài có tác dụng làm hạ ulucose huyết ở chuột bình thường, có tác dụng chống tăng glucose huyết ở chuột bị đái tháo đường, nhưng không ảnh hưởng đến insulin huyết (Maghrani et al., 2004).

  Trên chuột cống trắng bị tăng glucose huyết do alloxan, silymarin làm giảm glucose huyết, tăng glutathion tụy, glutathion huyết và chống peroxv hoá lipid (Soto et al„ 1998). Silymarin phục hồi lại hoạt tính của các enzym chống oxy hoá như superoxyd dismutase, glutathion reductase và catalase đã bị giảm do alloxan, là một trong những cơ chế tác dụng (Soto et aL 2003). Silymarin cũng làm phục hồi chức năng tuyến tụy đã bị tổn thương do alloxan thông qua việc đưa nồng độ insulin huyết, glucagon huyết và glucose huyết trở về gần trị số bình thường (Soto et al., 2004).

 Ở chuột cống trắng dòng Wistar, silibinin bảo vệ được tuyến tụy nội tiết bị tổn thương do cyclosporin A nên giảm tiết insulin (Von Schonfeld et ai., 1997). Silymarin cũng bảo vệ đưọc tế bào beta tuyến tụy, chống lại độc tính do IL - 1βvà interferon γ là các cytokin gây tăng sản xuất nitric oxyd (NO) và giảm tiết insulin (Matsuda et al., 2005).

Trên lâm sàng, thí nghiệm trên bệnh nhân bị đái tháo đường tip II tức là đái tháo đường không phụ thuộc insulin với các bệnh nhân bị xơ gan do đái tháo đường, silymarin làm giảm sự tăng insulin huyết do xơ gan, nhưng lại làm giảm glucose huyết, làm giảm nhu cầu cần dùng thêm insulin và làm giảm cả hàm lượng malondialdehyd huyết, một thông số phản ánh sự peroxy hoá lipid tăng ở người bị xơ nan (Velussi et ai., 1997). Silybin - beta - cyclodextrin, một chế phẩm bán tổng hợp từ silybin cĩmg có tác dụng tốt trên bệnh nhân bị đái tháo đường, bị bệnh gan do nghiện rượu (Lirussi et al., 2002).

8. Tác dụng chống ung thư

Trong thời gian gần đâv, silymarin và các flavonolignan đã được nghiên cứu nhiều trên tác dụng chống ung thư nhờ các phương pháp phân lập tế bào ung thư, xây dụng các mô hình gây ung thư và các thông số đánh giá ung thư được hoàn thiện. Silymarin và silibinin đều có tác dụng ức chế sự tổng hợp ADN và sự phát triển của tế bào ung thư tuyến tiền liệt LNCAP và DU 145 (Bhatia et al., 1999). Trên mô hình gây ung thư tuyến tiền liệt bằng testosteron, Silymarin và silibinin ức chế sự phát triển ung thư và sự chết tế bào theo chương trình (apoptosis) (Tyagi et al., 2002). Silibinin có tác dụng chống ung thư tuyến tiền liệt là do ức chế sự phân bào và các thông số sinh tử của tế bào như thụ thể của yếu tố phát triển biểu mô EGFR (epidermal growth factor receptor), thụ thể của yếu tố phát triển kiểu insulin tip I (insulin - like growth factor receptor I ) và yếu tố nhân kappa B. Cũng đã thấy silibinin ức chế sự phát triển u tuyến tiền liệt, nhưng lại không thấy có biểu hiện độc (Singh et a]., 2004a). Silibinin ức chế yếu tố sao chép biểu mô ở các tế bào ung thư tuyến tiền liệt (Thelen et al., 2004a).

Tác dụng chống ung thư tuyến tiền liệt còn do silibinin ức chế hoạt tính enzym telomerase và sự tiết kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt (Thelen et al., 2004b). Cơ chế chính về tác dụng chống ung thư tuyến tiền liệt của silymarin và silibinin là do thuốc làm thay đổi sự tiến triển của chu kỳ tế bào, ức chế sự phân bào, ức chế sự tiết các yếu tố giúp cho sự tạo mạch máu của tế bào u. Trên chuột nhắt trắng bị ghép mô u tuyến tiền liệt tiến triển của người, silibinin ức chế được sự phát triển u so với lô đối chứng không dùng thuốc (Singh et al., 2004c; 2006). Silymarin và silibinin làm ngừng chu kỳ phân chia tế bào ở các pha GI và pha G2 sang pha M (Deep et al„ 2006).

Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy Silymarin có tác dụng chống ung thư da (Sinuh et al., 2002). Dùng ngoài da, silymarin làm giảm số tế bào sản xuất ra hydrouen peroxyd do tia tử ngoại và chống lại được các stress oxy hoá ở da chuột nhắt trắng (Kativar. 2002). Silymarin phòng ngừa được ung thư da là do tác dụng chống viêm, chống oxy hoá và điều hoà miễn dịch (Katiyar, 2005). Silymarin có tác dụng bảo vệ chống lại sự chết của tế bào theo chương trình (apoptosis) do chiếu tia tử ngoại ở các tế bào u melanin ác tính của người (tế bào A375 - S2) với liều silymarin là 500 nmol trong 12 giờ và cường độ tia tử ngoại là 2,4 J/cm2 trong 5 phút (Li et al., 2004; 2006). Có tài liệu nêu silibinin có hiệu quả hai mặt, có thể bảo vệ, có thể tăng cường sự chết tế bào có chương trình đối với tế bào sừng ở người (Dhanalakshmi et al.. 2004). Dù sao cũng đã xác định rõ là silibinin có tác dụng phòng ngừa ung thư da (Singh et al., 2005). Đối với ung thư gan, silybin và dehydrosilybin có tác dụng ức chế sự phát triển của tế bào u gan của người, có thể thông qua ức chế tác dụng xúc tác cytochrom P450 1A1 (Dvorak et al., 2006). ở chuột cống trắng, silymarin ức chế sinh ung thư gan do chất N - nitrosodiethylamin (Ramakrishnan et al., 2006). Cũng đã xác định được hiệu quả chống lại ung thư tế bào gan của người do silibinin (Varghese et ai., 2005).

  Sinbinin cũng gây ức chế sự chết tế bào theo chương trình ở tế bào ung thư phổi của người (Sliarma et al., 2003). Để nghiên cứu khả năng chống tăng sinh và chống ung thư của silibinin, các tế bào ung thư phổi A549 đã được xử lý với silibinin ở các nồng độ khác nhau cho đến 100 μmol. Kết quả cho thấy, silibinin làm giảm hoạt tính của enzym metalloproteinase - 2, làm giảm hoạt hoá plasminouen urokinase và làm tăng chấtt ức chế mô của inetalloproteinase - 2 (Chu et al., 2004). Trên chuột nhắt trắng không có tuyến ức dòng BALB/c được ghép mô ung thư phổi tế bào không nhỏ (noil - small cell) A549 của người, silibinin dùng uống ức chế được sự phát triển của mô u. Nếu phối hợp silibinin với doxorubicin, hiệu quả điều trị được tăng cường và độc tính do doxorubicin giảm nhiều (Smell et aL 2004b).

Silibinin kích thích các chất ức chế kinase phụ thuộc cyclin (cyclin - dependent kinase inhibitors), gây ra sự ngừng chu kỳ phân chia tế bào và sự chết tế bào theo chương  trình ở tế bào ung thư ruột kết của người dòng HT - 29 (Agarwal et al., 2003). Cho chuột cống trắng đực dòng F344 uống chất azoxvmethan (AOM) sẽ gây ra ung thư ruột kết (đại tràng). Silymarin trộn với thức ăn với tỷ lệ 100, 500 và 1000 phần triệu rồi cho chuột ăn trong khi hoặc sau khi gây ung thư trong 4 tuần lễ, tỷ lệ chuột bị ung thư ruột kết giảm tuỳ theo liều dùng; liều càng cao, tỷ lệ ung thư càng giảm (Kolino et al., 2002).

Thử trên các tế bào ung thư bàng quang của người, silibinin làm ngừng ở pha GI của chu kỳ phân chia tể bảo. Nếu ở liều cao hơn, cả pha G2 sang pha M cũng bị ức chế (Tyagi et al., 2004b). Silibinin làm giảm protein sống, giảm RNA thông tin, hoạt hoá enzym caspase và sự chết tế bào theo chương trình ở các tế bào u nhú (papilloma) dòng R-T4 của bàng quang người (Tyagi et al., 2003).

Silymarin và silibinin có tác dụng ức chế sự tổng hợp DNA và ức chế sự phát triến tế bào ung thư vú dòng MCF - 7 và MDA - MB 468 ở người (Bhatia et al., 1999). Cũng thử trên 2 dòng tế bào ung thư vú trên, đã nghiên cứu dùng phối hợp silibinin nhiều nồng độ (25 - 100 μmol) với doxorubicin (10-75 nmol, cisplatin 0.2 - 2 Jimol hoặc carboplatin 2-20 μg), về tác dụng ức chế sự phát triển tế bào, tác dụng hợp động mạnh nhất là silibinin 100 μmol và doxorubicin là 25 nmoi đối với cả hai dòng tế bào fvlCF - 7 và MDA - MB 468. Nếu tỷ lệ phối hợp khác của cả 3 thuốc với silymarin đều cho tác dụng hợp đồng khá mạnh (Tiagi et al., 2004a).

Silymarin và silybin còn có tác dụng chống các toại ung thư khác. Silibinin có tác dụng độc tế bào, ức chế dòng tế bào u thần kinh đệm ở chuột cống trắng qua tác dụng trên thụ thể của yếu tố phát triển biểu bì (epidermal growth factor receptor) (Quet al„ 2003). Silibinin cũng ức chế sự tổng hợp DNA và ức chế sự phát triển tế bào ung thư cổ tử cung của người dòng A431 (Bhatia et al., 1999). Ở chuột cống trắng được 5 tuần tuổi cho uống nước có pha 20 phần triệu chất 4 - nitroquinolin 1 - oxid (4 - NỌO) trong 8 tuần sẽ xuất hiện ung thư lưỡi 64% sau 26 tuần nữa. Bắt đầu 1 tuần trước khi cho uống nước có 4 - NQO, cho chuột ăn chế độ ăn có 500 phần triệu silymarin trong 10 tuần, sau đó ăn chế độ ăn bình thường trong 24 tuần nữa. Đến tuần thứ 34, tỷ lệ ung thư lưỡi là 20% giảm hơn 3 lần so với lô đối chứng không dùng silymarin (Yanaida et al., 2002).

Silymarin và các flavonolignan của cúc gai dài có tác dụng hiệp đồng tác dụng chống ung thư và làm giảm độc tính của một số thuốc chữa ung thư. Silybin có tác dụng hiệp đồng làm tăng hiệu quả trong điều trị ung thư phụ khoa (Scatnbia et al., 1996). Cao cúc gai có tác dụng bảo vệ, làm giảm độc tính trên thận của cisplatin ở chuột cống trắng (Karims et al.. 2005), silibinin cũng có tác dụng chống độc trên thận do cisplatin (Gaedeke et al., 1996) . Như đã nêu ở trên, silymarin và các flavonolignan dùng đơn độc, có tác dụng ức chế sự phát triển của tể bào ung thư tuyến tiền liệt trong thí nghiệm ill vivo và ill vitro. Khi phối hợp với cisplatin hoặc carboplatin, là những hoá trị liệu chữa ung thư, làm cho tác dụng chống ung thư tuyến tiền liệt được tăng cường. Cisplatin dùng đơn độc ở nồng độ 2 μg/ml ức chế sự phát triển tế bào ung thư 48%; nếu phối hợp với 50 - 100 μmol silibinin, tỷ lệ ức chế tăng lên đến 63 - 80%. Cũng tương tự nlur vậy, carboplatin ở nồng độ 20 μg/ml tỷ lệ ức chế là 68%, còn khi phối hớp với silibinin, tỷ lệ ức chế là 80 - 90%. Đánh giá trên chu kỳ phân chia tế bào cũng thấy, dùng phối hợp làm ngừng pha G2 sang pha M mạnh hơn khi dùng đơn độc (Dhanalakshmi et al„ 2003).

9. Tác dụng kháng khuẩn

Silybin có tác dụng kháng khuẩn mạnh hơn silymarin, nhưng cả hai chỉ có tác dụng trên vi khuẩn Gram dương, không thấy có tác dụng trên vi khuẩn Gram âm và các vi nấm. Xác định cơ chế tác dụng thay silybin ức chế sự tổng hợp protein và RNA của vi khuẩn Gram dương (Lee et al„ 2003).

10. Dược lý lâm sàng chứa viêm gan, xơ gan

a) Viêm gan do rượu:

Trong một thử nghiệm lâm sàng ở 163 bệnh nhân bị viêm gan do rượu, silymarin được dùng trong 6 tháng thấy hoạt độ enzym gan trong huyết thanh giảm, chức năng gan đưọc cải thiện (Sahni et al., 1982). Một thử nghiệm lâm sàng khác ở 116 bệnh nhân bị viêm gan do rượu, trong đó có 58 bệnh nhân bị xơ gan. Mỗi bệnh nhân được uống 420 mg silymarin mỗi ngày trong 3 tháng thấy chức năng gan ở lô dùng silymarin được cải thiện hơn so với lô không dùng Silymarin (Trinchet et al., 1989). Một thử nghiệm dùng legalem, mỗi viên có 70 mg silymarin, mỗi ngày dùng 6 viên trong 6 tháng., thấy hàm lượng bilirubin, procollagen III và hoạt độ các enzym ALT. AST trong huyết thanh giảm và tăng hoạt độ gkitathion peroxydase (Feiler et al„ 1989) và cải thiện được về mô bệnh học so với lô dùng thuốc vờ [WHO, 2002, II: 300 - 306]. Tuy nhiên, tổng hợp 13 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trên 915 bệnh nhân bị bệnh gan do rượu và viêm gan do virus B hoặc C thay cúc gai không cải thiện được tỷ lệ chết và biến chứng do bệnh gan, tuy có cải thiện được một số thông số về chức nâng gan. Các tác giả thấy rằng, phương pháp nghiên cứu còn chưa có chất lượng, chưa chuẩn hoá tốt ở nhiều thử nghiệm (Rambaldi et al„ 2005). Một tổng quan, tập hợp các nghiên cứu lâm sàng dùng cúc gai dài điều trị cho bệnh nhân bị viêm gan do rượu cũng thu được kết quả tương tự (Ball et al., 2005).

b) Xơ gan

Silymarin và các flavonolignan của cúc gai đã được đánh giá trong nhiều thử nghiệm lâm sàng. Trong một nghiên cứu ở 170 bệnh nhân bị xơ gan, trong đó xơ gan do rượu là 91 đưọc chia ngẫu nhiên thành 2 lô, lô dùng silymarin mồi lần 140 mg, ngày 3 lần trong 2 năm và lô placebo. Lô placebo có 83 bệnh nhân, 10 người bỏ cuộc, số chết là 37 trong đó có 31 chết do bệnh gan. Lô dùng thuốc có 87 bệnh nhân, 14 nguời bỏ cuộc, 24 người chết với 18 chết do bệnh gan. Như vậy là silymarin có hiệu quả trong điều trị cho bệnh nhân xơ gan do rượu với P = 0,01, còn tính chung cho tất cả bệnh nhân xơ gan, tác dụng có thấp hơn một ít với P = 0,036, vẫn có ý nghĩa thống kê so với lô placebo. Không thấy có tai biến do thuốc trong thử nghiệm (Ferenci et al„ 1989). Sau khi điều trị bằng silymarin, hoạt độ enzym gan, hàm lượng bilirubin và polypeptỉd của collagen típ III trong huyết thanh đều giảm xuống (Feher et al., 1989). Dùng cúc gai cho bệnh nhân xơ gan do rượu là có lợi (Boerth et al., 2002). Tuy nhiên, một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù kép trên 125 bệnh nhân xơ gan, cho uống silymarin với liều hàng ngày 450 mg trong 2 năm, thấy tỷ lệ sống của lô điều trị bằng silymarin không hơn so với lô dùng thuốc vờ (Peres et al., 1998). Để đánh giá tác dụng ức chế xơ hoá gan của silymarin, đã thử trên 277 bệnh nhân bị viêm gan mãn tính. Khi gan bị xơ hoá thì hàm lượng procollagen III trong huyết thanh tăng. Dùng silymarin với liều 420 mg mỗi ngày trong 4 tuần thấy procollagen III giảm (Held, 1992). Trên 108 bệnh nhân bị viêm gan mạn tính do rượu, silymarin được dùng với liều 400 mg hàng ngày trong 5 tuần lễ thấy hàm lượng procollagen III và hoạt độ enzym gan trong huyết thanh giảm đi (Held, 1993).

Thử nghiệm trên 60 bệnh nhân bị xơ gan do đái tháo đường được chia ngẫu nhiên thành 2 lô, lô placebo và lô dùng silymarin vói liều 600 mg mỗi ngày trong 6 tháng. Kết quả cho thấy hàm lượng glucose huyết, malonyldialdeliyd trong huyết thanh và nhu cầu insulin hàng ngày giảm có ý nghĩa so với lô placebo (Velussi et al., 1993; 1997).

c) Viêm gan do virus

Đã có nhiều công trình nghiên cứu dùng silymarin để điều trị viêm gan do virus trên lâm sàng (Mayer et al., 2005). Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù kép trên 57 bệnh nhân bị viêm gan do virus, bệnh nhân được uống mỗi ngày 420 mg silymarin trong 3 tuần. Ở lô dùng silymarin, 40% bệnh nhân có nồng độ bilirubin huyết trở lại bình thường so với 11% ở lô dùng placebo; 82% bệnh nhân ở lô dùng thuốc có AST trong huyết thanh trở về bình thường so với 52% ở lô placebo. Tuy nhiên không có sự khác nhau về số bệnh nhân có đáp ứng miễn dịch ở cả 2 lô (Magliulo et al„ 1978).

Một thử nghiệm lâm sàng ở các bệnh nhân bị viêm gan virus B. Lô bệnh nhân được điều trị bằng silymarin phục hồi sức khỏe nhanh hơn, và thời gian để có đáp ứng miễn dịch ngắn hơn so với lô chỉ được chăm sóc nâng đỡ (30,4 ngày so với 41,2 ngày); các biến chứng đi kèm với bệnh ở lô dùng silymarin (dùng mỗi ngày 420 mg) giảm hơn lô placebo (Plomteux et al., 1977). Trong một thử nghiệm lâm sàng mù kép, có đối chứng với placebo trên 36 bệnh nhân bị bệnh viêm gan mãn trong đó có một số đã xơ gan, bệnh nhân được điều trị bằng 420 mg silymarin mỗi ngày trong 3 tháng. Kết quả cho thấy không có sự khác nhau có ý nghĩa về hàm lượng bilirubin và enzym gan trong huyết thanh giữa 2 lô. Tuy nhiên, có sự cải thiện về mô học tốt hơn ỡ lô dùng silymarin so với lô placebo (Kiesevvetter et al.. 1977).

Để đánh giá về nhận thức và sử dụng các chế phẩm của cúc gai dài của người bị bệnh viêm gan virus C mãn tính đã phân tích y bạ và phỏng vấn trực tiếp 500 cựu binh Hoa Kỳ bị viêm gan virus C mạn tính (lô A) so với 250 người khác đến khám bệnh (lô B) ở 3 bệnh viện gần cảng New York. Kết quả cho thấy, số người sử dụng thực vật trị liệu ở lô A là 21,0% (trong đó dùng chế phẩm của cúc gai dài là 12,2%, dùng nhân sâm là 4,6%, và dùng các chế phẩm thực vật khác là 4,2%), ở lô B là 10,4% với P < 0.001. Như vậy là những người bị bệnh viêm gan virus C mãn tính có khuynh hướng dùng các sản phẩm của cúc gai dài để chữa bệnh cao hơn ở các nhóm người khác (Sidddiqui et ai., 2004).

d) Viêm gan do tác nhân khác

Đã tiến hành thử nghiệm trên 30 bệnh nhân có 5 - 20 năm làm nghề phải tiếp xúc với hơi toluen hoặc xylen. Silymarin được cho uống mỗi lần 140 mg, ngày 3 lần trong 30 ngày và so sánh với lô 19 người không được điều trị. Chức năng gan và số lượng tiểu cầu được cải thiện rõ rệt ở các bệnh nhân dùng silymarin. Hoạt độ enzym AST và ALT giảm và số lượng tiểu cầu tăng có ý nghĩa so với lô đối chứng (Szilard et al., 1988). Trong một nghiên cứu khác thử trên 14 bệnh nhân phải tiếp xúc lâu ngày với malathion (phosphat hữu cơ). Chế phẩm silymarin dược dùng liều hàng ngày là 420 mg. Sau một tháng điều trị, không thấy có sự cải thiện có ý nghĩa về các thông số xét nghiệm chứ năng gan (Boari et al., 1981).

Một nghiên cứu lâm sàng mù kép có đối chứng với placebo đã được thực hiện để đánh giá tác dụng của silymarin trong phòng chống các tổn thương gan do thuốc hướng tâm thần với số bệnh nhân là 60. Bệnh nhân được uống silymarin mỗi ngày 800 mg liền trong 90 ngày. Kết quả cho thấy silymarin cài thiện được chức năng gan và làm giảm tổn thương gan so với lô placebo (các bệnh nhân đã qua điều trị dài ngày bằng thuốc hướng tâm thần nhóm butyrophenon hoặc nhóm phenothiazin (Palasciano, 1994). Một nghiên cứu khác thử trên 19 bệnh nhân đã dùng dài ngày thuốc hướng tâm thần. Sau 6 tháng điều trị bằng silymarin, các thông số hoá sinh gan có được cải thiện (WHO, 2002, II: 300 - 306].

Nhiều báo cáo cho thấy silymarinvà các flavonolignan của cúc gai dài có hiệu quả trong điều trị ngộ độc do ăn phải nấm độc Amanita phailoides (Vogel, 1980). Độc tố của nấm Amanita ức chế hoạt tính của enzvin ARN polymerase trong tế bào gan, gây chết tế bào sau 12-24 giờ. Trong một nghiên cứu lâm sàng, 60 bệnh nhân ăn phải nấm độc Amanita phalloldes trong vòng 24 - 36 giờ, được tiêm truyền tĩnh mạch silybin với liều 20 mg/kg thể trọng mỗi ngày trong 1 - 2 ngày, tỷ lệ sống sót là 100% (Wagner et ai.. 1977). Silibinin cũng có tác dụng điều trị ngộ độc nấm Amanita rất tốt (Fulinnan et al., 1983; Hruby, 1984). Phân tích kết quả nghiên cứu 205 trường hợp bị ngộ độc do ăn phải nấm Amanita phalloicics cho thấy, tiêm truyền tĩnh mạch silybin với liều 20 mg/kg thế trọng một ngày trong 1 - 2 ngày (2 ngày nếu sau một ngày thấy đỡ, nhưng chưa khỏi hẳn) làm giảm hẳn tỷ lệ chết mà không gây tác dụng phụ do thuốc (Floersheimetal., 1982).

11. Độc tính

Độc tính cấp của silymarin đã được nghiên cứu trên chuột nhắt trắng và chuột cống trắng, thỏ và chó dùng đường tiêm hoặc truyền tĩnh mạch. Trị số LDso ỏ' chuột nhát trẳim là 400 mg/kg, ở chuột cống trắng là 350 mg/kg, ỏ' thỏ và chó là 140 mg/kg. Tuy nhiên, các số liệu này chỉ là tirong đối vì còn phụ thuộc vào tốc độ truyền. Nêu tiêm truyền chậm kẻo dài hơn 2-3 giờ thì LD50 ở chuột cống trắng là 2000 mg/kg. Nguyên nhân gây chết ở động vật là do trụy tim mạch (Fraschini et al., 2002).

Dùng đường uống, silymarin không gây các biểu hiện bất thường nào cho động vật thí nghiệm như dùng liều 20 g/kg một lần cho chuột nhắt trắng; hoặc 1 g/kg một ngày liền 15 ngày hoặc 100 mg/kg một ngày trong 22 tuần đối với chuột cống trắng và chó. Các chỉ số huyết học, khối lượng động vật cũng như các cơ quan nội tạng đều không bị ảnh hưởng. Silymarin cũng không độc cho thai (Hahn et al., 1968).

Tính vị, công năng

Toàn cây cúc gai dài vị đắng, tính mát hơi hàn, có công năng hạ sốt, cầm máu, trừ lỵ, thanh can, giải độc. Sách "Toàn quốc Trung thảo dược hội biên" ghi: cúc gai vị đắng, tính mát, có công năng thanh nhiệt giải độc, dưỡng can, lợi mật [TDTH, 1993, I: 963].

Công dụng

Toàn cây cúc gai dài được dùng để kích thích tiêu hoá, chữa viêm gan, hoàng đàn, phù thũng, ngứa, mụn nhọt sưng đau. Quả cúc gai được dùng chữa viêm àan, vảng da, viêm lách, sỏi mật, sỏi bàng quang, ho lâu năm. Ngày dùng 20 - 30g cây khô sắc uống. Hạt sao thơm ăn hoặc xay thành bột ăn, ngày 12 - 15g, silymarin ngày 200 - 400mg, dùng luôn nhiều ngày.

Ở Ấn Độ, lá cúc gai dài được dùng để nhuận tràng, làm ra mồ hôi; hạt để làm dịu, chống xuất huyết và để làm tăng huyết áp vì trong hạt có chất tyramin [Chopra et al., 2001: 227; Kirtikar, 1998: 1418].

Ở Hoa Kỳ, lá non bỏ gai đi có thể được ăn như rau; cao toàn cây cúc gai dài để kích thích ăn uống, làm ăn ngon; phục hồi chức năng san để điêu trị vàng đa, viêm gan, xơ gan, ngộ độc gan do hoá chcất, do thuốc, do nghiện rượu; silymarin, silybin được chiết từ hạt cúc gai cải thiện tốt khi gan bị tổn thương, được dùng trong viêm gan, xơ gan, các bệnh khác về gan; để điều trị ngộ độc nấm phải chế ra dạng thuốc tiêm để tiêm hoặc truyền tĩnh mạch. Cúc gai còn được dùng để phòng ngừa cho những người thường hay tiếp xúc với các hoá chất độc hại [Foster et aL 2000: 224].

Cúc gai là cây thuốc có nguồn gốc châu Âu, được nhân dân châu Âu dùng từ lâu đời với tác dụng bảo vệ gan, sinh mật và thông mật, thường được dùng chữa viêm gan, suy chức năng gan hoặc gan bị nhiễm độc do nấm độc, do thuốc hoặc hoá chất. Cúc gai cũng đã được chứng minh có tác dụng chống ung thư trên thực nghiệm và đang được nghiên cứu chống ung thư trên lâm sàng. Hội đồng xét duyệt thuốc của Đức đã chấp nhận việc dùng silymarin và một số flavonolignan cúc gai dài trong hỗ trợ điều trị viêm gan mãn tính và xơ gan. Liều trung bình của hạt cúc gai dài mỗi ngày là 12 - 15g, tương đương với 200 - 400ma silymarin cần chú ý là Silymarin rất ít tan trong nước, vì vậy dùng dạng hãm như hãm chè ít có hiệu quả. Những nghiên cứu cho rằng pha chế theo kiểu chè như vậy, hoạt chất chỉ ra được 10%. Một nhược điểm khác là silymarin hấp thu kém qua đường tiêu hoá, vì vậy phải dùng liều cao. Nhưng ưu điểm là dùng liều cao, nhưng thuốc cũng không gây ra tai biến [Robbers et al., 1999: 76].

Silymarin, silybin còn có tác dụng bảo vệ gan chống lại nhiều chất độc gây hại cho gan kể cả loại nấm độc rất dễ gây chết người là Amanita phalloides. Khi bị nhiễm độc nấm, trong vòng 24 giờ, nếu tiêm silymarin thì có thể phòng ngừa có hiệu quả. Cần tiêm silymarin càng sớm càng tốt vì các peptid vòng gây độc của nấm phải có một thời gian sau khi ăn, mới vào đến gan gây tổn thương. Trên màng ngoài tế bào gan có các thụ thể (receptor), các chất độc của nấm tác động vào đó rồi xâm nhập vào trong tế bào và gây ra tổn thương gan. Nếu dùng sớm, silymarin có thể liên kết với các thụ thể này, ngăn cản chất độc của nấm (như amanitin, plialloidin) tác động, không cho chúng vào trong tế bào gan để gây độc. Trên động vật thí nghiệm, nếu tiêm silymarin, sau đó mới cho uống nấm, các con vật sẽ được bảo vệ 100%, không có con nào chết [Robbers et al., 1999: 76].

Trên thị trường Việt Nam hiện nay, có rất nhiều chế phẩm của thuốc từ cúc gai. Sản xuất ở Đức, có 3 chế phẩm có thành phần khác nhau: Silibene N của hãng Merckle, thành phần là cao toàn phần tiêu chuẩn hoá của cúc gai; viên Legalon của hãng Madaus thành phần là silymarin; thuốc tiêm Legalon SIL của hãng Madaus, thành phần là silybin - C - 2', 3 - dihydrogensuccinat natri dùng để điều trị ngộ độc nấm Amanita phalloïdes. Từ Tây Ban Nha có các viên Cardomarin của hãng Chenunova; Silarine của hãng Vir; Siliklari của hãng Clariana; Silimazu của hãng Mazuclos; tất cả đều có thành phần là silymarin. Nhập khẩu từ Pháp có viên bao Legalon cùa hãng Goger Bellon, mỗi viên có 70 mg silymarin. Từ Italia có các viên Eparsil của hãng Pulitzer, Silepar của hãng Ibirn, Silliver của hãng Abbott, Silirex cùa hãng Lampugnani đều có thành phần là silymarin; riêng viên Silymarin - B của hãng Benadetti, thành phần gồm silymarin và các vitamin nhóm B. Từ Bungari, có viên bao Carsil, mỗi viên có 35 mg silymarin. Từ Thụy Sỹ có viên Simepar của hãng Mepha, thành phần gồm silymarin và các vitamin nhóm B. Viên Hepabene của hãng Ratiopharm sản xuất tại Hungari, mỗi viên có 70 - 100 mg cao tiêu chuẩn của cúc gai và 275 mg cao chiết từ toàn cây bỏ rễ của Fumaria officinalis (cây này chưa thấy có ở Việt Nam). Viên Hepadigenor của hãng Baliarda ở Argentina gồm silymarin, acid dehydrocholic, pancreatin và simethicone để điều trị cả rối loạn tiêu hoá và rối loạn chức năng gan.

Bài thuốc có cúc gai

Chữa viêm lúi mật mạn tính: Quả cúc gai 20g, lá bạc hà 25g, rễ bồ công anh thấp và lá bồ công anh thấp mỗi vị 12g, cây bỏ rễ Chelidonium mujus L 10g, hoa cây Lavandula angustifoua 5g, vỏ cây Frangida alnus 10g. Thêm 600ml sắc còn 250ml, mỗi lần uống 1 - 2 thìa canh, ngày 3 lần sau bữa ăn [Ovtclirov et al„ 1992: 93].

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC