Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần Đ

Đậu Răng Ngựa

10:06 06/06/2017

Vicia faba L.

Tên đồng nghĩa: Faba vulgaris Moench.

Tên nước ngoài: Broad bean, field bean (Anh).

Họ: Đậu (Fabaceae).

 Mô tả

Cây thào, sống hằng năm,cao 0,6 - 1m hoặc hơn. Rễ mang nhiều nốt sần. Thân cứng mọc thẳng, rỗng giữa, có cạnh rõ, không phân nhánh, đôi khi có tua cuốn. Lá kép lông chim gồm 1 - 3 đôi lá chét hình trái xoan hoặc hình mác thuôn, dài 4 - 8 cm, rộng 2,5 - 4 cm, đầu tù hơi nhọn, màu lục mốc.

Cụm hoa mọc thành chùm, hoa màu trang, viền tím sẫm.

Quả đậu, dài 40 cm, có khoảng 10 hạt to, dẹt, màu lục nâu, tía hoặc đen, vỏ hạt dày. Hạt non mềm, màu nâu lục nhạt; hạt già cứng, màu lục nâu.

Mùa hoa: tháng 1 - 2; mùa quả: tháng 3 - 5.

Phân bố, sinh thái

Chi Vicia L. ở nước ta ghi nhận có 5 loài, nhưng về nguồn gốc đều là cây nhập trồng [Danh lục các loài thực vật Việt Nam, tập 2, 2003].

Theo nhân dân ở một số địa phương giáp biên giới phía Bắc, đậu răng ngựa mà họ đang trồng có xuất xứ từ Trung Quốc. Cây được nhập trồng từ trước năm 1954. Các địa phương hiện có trồng đậu răng ngựa gồm có: Hà Giang (Đồng Văn. Mèo Vạc, Yên Minh, Quảng Bạ); Cao Bằng (Trùng Khánh, Hạ Lang); Lạng Sơn (Tràng Định); Lai Châu (Phong Thổ); Lào Cai (Bắc Hà. Mường Khương); Yên Bái (Mù Cang Chải)... Được biết về nguồn gốc xa xưa của loài đậu này ở vùng Đông Bắc Á, sau lan rộng ra nhiều quốc gia. Trung Quốc đã trồng đậu răng ngựa từ khoảng 100 năm trước Công nguyên. Ở Nhật Bản cũng đã trồng câvy này từ lâu đời.

Đậu răng ngựa là cây ưa sáng, khi còn nhỏ thì ưa ẩm, sau khi có hoa quả cây có khả năng chịu hạn và chịu lạnh tốt. Tại nhiều nơi thuộc huyện Đồng Văn và Mèo Vạc tỉnh Hà Giang, từ tháng 9 đến tháng 12 là thời kỳ rất ít mưa, đất trên nương rẫy khô hạn, nhưng cây đậu răng ngựa vẫn sinh trưởng phát triển bình thường và cho thu hoạch cao. Có lẽ, đây cũng là một ưu thế của loại cây trồng này tại các địa phương trên.

Cách trồng

Đậu răng ngựa vốn là cây của vùng ôn đới ấm hoặc vùng cận nhiệt đới. Cây có khả năng chịu được khô hạn và lạnh nên ở Việt Nam mới chỉ thấy trồng ở các vùng núi cao.

Đất trồng: Đất nương rẫy, thậm chí lẫn sỏi đá và nghèo dinh dưỡng hoặc đất ở vườn gia đình. Trước khi trồng cần cày bừa, vơ cỏ, lên luống sẵn.

Thời vụ trồng: tháng 9-10 hoặc tháng 1 - 2. Trồng bằng hạt.

Cách trồng: Sau khi đất đã lên luống, bỏ hố, cự ly 20 X 20 cm/hố. Bón lót bằng phân chuồng mục; gieo mồi hốc 2 - 3 hạt, lấp đất. Hạt gieo sau 15-20 ngày nảy mầm. Cây mầm có thể bị chết nếu thời tiết lạnh có kèm theo sương muối dài ngày.

Chăm sóc: Bao gồm hai lần làm cỏ và xới đất vun gốc. Lần thứ nhất khi cây mọc cao khoảng 20 cm; lần thứ hai trước khi có hoa khoảng nửa tháng, lần này kết hợp bón thúc. Đậu răng ngựa sẽ ra hoa trước Tết âm lịch. Đến tháng 4 năm sau cây vàng úa, quả già và cho thu hoạch. Khi thu hoạch thường cắt cả cây, ủ một ngày sau đem phơi, quả khô sẽ tự mở để hạt rơi ra ngoài.

Bộ phận dùng

Hạt đã phơi hoặc sấy khô. Ngọn và chồi non còn tươi. Rễ tươi.

Thành phần hoá học

Hạt tươi chứa 20% protein; 1% lipid; 66,6% dẫn xuất protein dễ tiêu.

Hạt khô chứa 25% protein; 1,6% lipid; 70,30% dẫn xuất không protein; 4,9% chất xơ; 3.9% tro.

Hạt còn có wyeron, điểm chảy 63% (0,001%). Wyeron có tác dụng với một chất cây bệnh cho cây và một số nấm da. Ngoài ra, còn có L - dopa, một chất kiềm là vicin, medicarpin, các chất giberilin A (GAI7), GA19. GA20, GA29, GA44 và 13 - hydroxy - GA12 (GA53).

Hạt còn chứa các chất P-2vàB-[3-3-D- glucopyranosyl - 4 - hydroxy phenyl] - L - alanin, p - 2 nếu đem thuỷ phân sẽ cho dopa và glucose. Hạt nảvy mầm 8 ngày cho chất oxoester acetylenic (I).

Hạt non có acid 4 - clorotryptophan, acid 4 - cloroindol - 3. Người ta còn thấy một chất tetraamig là norspermin. Dịch tiết ra từ hạt có 7, 3’, 4’ - trihydroxyflavon, 7, 4’ - dihydroxyflavon, quercetin cùng với 7 - o - glucosid là kaempferol. 

Hạt già chứa 2 polvamin mạch hở là PA4444 PA44444. Người ta còn thấy có 8 polyamin mạch nhánh bậc 3 là PA4(4)44, PA.((4)444, r>A,(4)4444. PA44(4)44. p A ,4(4)444. PA,(4)4(4)4. PA4(4)4(4)44 và PA4(4)44(4)4.

Nhiều chất đã được phân lập từ hạt: các procyanitlin B - 1. B - 3. B - 4 và nhiều chất khác là epicatechin, epiựalocateđiin, 1'alocatcchin (4a, 8) - epi”aloc;itechin. »alocatechin (4a, 8) catechin và »alocatechin (4a, 8) epicalecliin.

Quả chưa chín chứa s - hydroxylvsin.

Vỏ hạt ngoài chứa [3[3 - o - ülucopyranosicl] và p - slucose.

Lá chứa kaemplerol - 3 - glucosiđo - 7 ramnosid. acid - glyceric, acid Iblinic. plastoquinon, histon Hì, 1I:A. HỊB, ll|. albumin, Ivsin, polyplicnol oxidase. Theo lài liệu khác, lá có flavonol glvcosid: kacmplerol - 3 - Ü - (2" - a - L - ramnosyl - 6" - gcety 1 - p - D - galactopyranosido) - 7 - o - a - L. ramnopyranoskl). kaempícrol - 3 - o - L6" - acetyl - B - o - ualactopyranosido) - 7 - o - ra - L.ramnopvranosid, qucrcetin - 3 - o - (6" - acetvl - ị3 - D - ualactopvranosido) - 7 - o - a - L.ramnopvranosid và các dẫn cliẩt đesacetyl của chúng,

Hoa chứa (E)P - ocimen. Theo lài liệu khác, hoa chira N - [(-) jasmonyl] - 7(S) - tyrosin. N - [(-) - jasmonoyl] - 7(S) - tryptoplian à N - [(+) cucurbinoyl] - 7(S) - trvptophan.

Tác dụng dược lý

1. Tác dụng kiểu estrogen (hormon nữ giới)

Hạt đậu răng ngựa tươi có tác dụng kiểu estrogen, về tác dụng này, đã xác định được lkg đậu răng ngựa tươi có tác dụng tương đương 11,4 ug estradiol monobenzoat [Duke J.A. 2002. tr 291], Cao ethanol - ether của hạt liều 50 mg có tác dụng kích thích tử cung thỏ không có thai ở thời kỳ cliestrus (thời kỳ không động dục). Đậu răng ngựa có tác dụng kích dục (sách đã dẫn).

2. Giá trị dinh dưỡng

Thí nghiệm trên gà mái được 18 tuần tuổi. bắt đầu đẻ trứng. Chia gà làm hai lô. lô ăn thức ăn bình thường, có khẩu phần đạm là hạt đậu nành (A) và lô ăn thức ăn như A. nhưng thay dậu nành bằng đậu răng ngựa. Theo dõi các thông gồm số trứng đẻ. khối lượng trung, bình quả trứng, chất lượng vỏ trứng, màu của lòng đỏ trứng và tỷ lệ trứng so với thức ăn tiêu thụ. Thông kê và theo dõi trong 10 tuần.

Kết quả: Các thông số ở hai lô đều tương đương, nhưng ở lô B khối lượng thức ăn tiêu thụ ít hơn và màu của lòng đỏ nhạt hơn (Laucladio và Tufarelli, 2010). 

Tác dụng  kiểu dopamin

Trong hạt đậu răng ngựa. Wyerone đã phân lập được L - dopa (tức là Levodopa), một tiền chất của đopamin. là một chất trung gian hoá học của hệ thần kinh [Rastogiet Mclirotra, 1999, II: 700], Thiếu dopamin trong các nhân xám, sẽ sinh ra bệnh Parkinson. Trong hạt đậu răng ngựa có L - dopa, khi vào cơ thể. có khả năng thấm được vào thần kinh trung ương, sau đó L - dopa bị khử carboxyl để thành dopamin. Do đó hạt đậu răng ngựa có khả năng chống lại bệnh Parkinson [Duke J.A. 2002: 291]. Nếu lá dopamin thì không có khả năng thấm qua hàng rào máu não và không có tác dụng. Cũng theo Duke J.A. 20U2. LD5 dùng đường uống của I, - dopa chiết từ hạt đậu răng ngựa là 609 ppm (thỏ), 3650 ppm (chuột nhất trắng) và 4000 ppm (chuột cống trắng), cần kiểm tra lại các số liệu này.

4. Tác dụng kháng nấm

Hạt đậu răng ngựa có tác dụng ức chế một số loại nấm da [Rastogi và Mehtrotra. 1999 tài liệu đã dẫn] và hạt chưa nảy mầm có tác dụng chống nấm khá; chất phytoalexin có tác dụng chống lại một số loại nấm hại cây trồng [Duke J.A, 2002, tài liệu đã dẫn].

5. Tác dụng ngưng kết hồng cầu

Một lectin được phân lập từ hạt đậu răng ngựa có tác dụng làm ngưng kết hồng cầu người và thỏ [Rastogi et Mehrotra, 1998, V: 881].

6. Tác dụng độc

Trong hạt đậu răng ngựa có hàm lượng Asen khá cao 0,02 mg trong lOOg hạt [Nadkarni AK., 1999: 1272].

Tính vị, công năng

Hạt đậu răng ngựa vị ngọt nhạt, tính mát, có độc; có công năng cầm máu, lợi tiểu, tiêu thũng. Tài liệu Trung Quốc ghi tính vị: lá vị đắng, hơi ngọt, tính ấm; hạt quả vị ngọt, tính bình; hoa vị ngọt, tình bình; về công năng: thân chỉ huyết, chỉ tả; hoa lương huyết, chỉ huyết; vỏ quả lợi niệu, tiêu thấp; hạt quả kiện tỳ, lợi thấp, khu phong, chỉ huyết [TDTH, 1996, II: 1901],

Sách "Cương mục" ghi: lá vị đắng hơi ngọt, tính ấm; có công năng chỉ huyết, trừ thấp, tiêu thũng. Vỏ quả có công năng lợi thuỷ, tiêu thấp [TDTH, 1996, II: 1902],

Về hoa, sách "Tô Châu bản sản dược tài" ghi vị ngọt, tính bình; sách "Tứ Xuyên trung dược chí" ghi: vị nhạt, tính bình; sách "Thượng Hải thường dụng Trung Thảo dược" ghi: vị ngọt hơị cay, tính bình; có công năng lương huyết chi huyết; cành cây đậu răng ngựa có công năng chỉ huyết, chỉ tà; vỏ quả chí huyết, giải độc [TDTH 1996, II: 1903].

Công dụng

Hoa đậu răng ngựa được dùng làm mát, thanh nhiệt, lương huyết. Ngày dùng 6 - 9g, hoa tươi 15 - 30g sắc uống. Hoa tươi có thể giã nát, lấy dịch uống, hoặc chưng cất lấy nước uống, vỏ quả để lợi niệu, trừ thấp, ngày 15 - 30g sắc uống. Hạt luộc chín, chiết bỏ nước hoặc rang để khử chất độc dùng để ăn hoặc làm tương như hạt đậu nành. Quả đậu răng ngựa khô, nghiền cả quả thành bột, được dùng để ướp hương một số món canh.

Ở Ấn Độ, chồi của cây đậu răng ngựa được dùng có hiệu quả trong việc làm tỉnh người say rượu khỏi trạng thái sững sờ [Nadkarini AK., 1999: 1272]. Củ tươi để lợi tiểu và chữa bệnh suy chức năng gan [Chopra et al., 1998: 100]. .ở Indonesia, hạt được dùng làm thực phẩm [Međi. Iierb index, 1995: 132],

 

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC