Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần D

Diệp Hạ Châu Đắng

14:05 18/05/2017

Phyllanthus amarus Schum. et Thonn.

Tên khác: Chó đẻ thân xanh.

Họ: Thầu dầu (Euphorbiaceae).

Mô tả

Cây thảo, cao 10-40 era, ít phân cành, màu lục. Lá mọc so le, xếp hai dãy đều trên cành trông như một lá kép lông chùn, gốc tròn, đầu tù hơi nhọn, hai mặt nhẵn, mặt trên màu lục sẫm, mặt dưới mông mốc.

Hoa đơn tính, mọc ở kẽ lá, không có cánh hoa, màu lục nhạt; hoa đực có cuống ngắn, xếp ở dưới hoa cái; hoa cái có cuống dài.

Quả nang, hình cầu, nhẵn, hơi dẹt, chia thành 3 mảnh vỏ, mỗi mảnh có 2 van chứa 2 hạt; hạt hình tam giác, đường kính lmm, có cạnh dọc và vần ngang.

Mùa hoa: tháng 4 - 6; mùa quả: 7-9.

Diệp hạ châu đắng và tác dụng chữa bệnh của nó

Phân bố, sinh thái

Diệp hạ châu đắng có nguỗn gốc xa xưa ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ và hiện nay thấy phân bố rải rác khắp các vùng nhiệt đới cổ. Ở châu Á, vùng phân bố của diệp hạ châu đắng gồm các nước Ân Độ, Malaysia, Philippin, Indonesia, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Nam Trung Quốc và cả ở vùng đảo Salawesi. Ở Việt Nam, diệp hạ châu đắng cũng thấy rải rác khắp nơi, từ các tỉnh ở vùng đồng bằng, ven biển, các đảo lớn đến các tỉnh ở trung du và miền núi, có độ cao dưới 800m; Ở các nước Đông Nam Á, độ cao phân bố này có thể đến 1000m (F. L. var Holthoon, 1999).

Diệp hạ châu đắng là cây ưa sáng và có thể hơi chịu bóng khi còn nhỏ hoặc mọc xen lẫn với những loại cây cỏ khác. Cây thường mọc ở đất ẩm trong vườn, ruộng trồng hoa màu, ven đường di hay trên nương rẫy. Cây con mọc từ hạt thường xuất hiện vào khoảng cuối mùa xuân; sinh trưởng nhanh trong vòng 2 tháng của mùa hè, sau đó ra hoa quả và tàn lụi. Toàn bộ vòng đời của cây chỉ kéo dài 3-4 tháng. Hạt của diệp hạ châu đắng tồn tại trên mặt đất 7-8 tháng vẫn còn sức nảy mầm.

Bộ phận dùng

Toàn cây, thu hái quanh năm, dùng tươi hoặc phơi, sấy khô.

Thành phần hóa học

Lá diệp hạ châu đắng chứa chất đắng không có quinin hoặc alcaloiđ. Lá khô chứa các chất dắng hypophylanthin (0,05%) phylanthin (0,35%), các chất này gây độc đối với cá và ếch. Trong cây có niranthin, nirtetralin và phylteralin.

Gần đây, người ta còn phát hiện trong cây có lignati, flavonoid, alcaloid kiểu securinin như niruroidin, isobubialin, epibubialin một loại elagitanin, cùng với I - o - galovl -24- dehyđrohescahvdroxydyphenovl - glucopvranose elaeocarpusin, quercetin, quercitrin, isoquercitrin astragalin, rutin, các acid hữu cơ như ascorbic geraniinic 13 aciđ amarimic và repandusinic A.

Tác dụng dược lý

Cao diệp hạ châu đắng có tác dụng bảo vệ gan trên chuột cống trắng được gây nhiễm độc gan bằng carbon tetraclorid. Trong mô hình gây xơ gan thực nghiệm trên chuột cống trắng, thuốc có tác dụng làm giảm hàm lượng colagen trong máu và làm giảm mức độ xơ gan ở động vật điều tri so với đối chứng. Thuốc có tác dụng lợi tiểu, chống oxy hóa và tỏ ra có độ an toàn cao trong thử nghiệm về độc tính. Các lignan phyllanthin và hvpophyllanthin trong diệp hạ châu đắng có tác dụng bảo vệ lế bào gan chuột cống trắng chống lại tác dụng độc hại tế bào gây bởi carbon tetraclorid và galactosamin. Phyllanthin có hoạt tính chống độc hại di truyền nhưng cũng có tác dụng độc đối với hệ thần kinh và gan. Các tanin có thể thủy phân có hoạt tính ức chế các protein kinase được điều chỉnh bởi tín hiệu.

Diệp hạ châu đắng ức chế DNA polymerase ở virus viêm gan B và vius viêm gan khác như vius viêm gan ở con mác - mốt, có hoạt tính in vitro và in vivo kháng virus viêm gan B và các vius có liên quan, có hoạt tính in vitro đối kháng với enzym transcriptase ngược của retrovirus, và có thể có hoạt tính in vivo kháng lại retrovirus. Trong một nghiên cứu lâm sàng sơ bộ những người mang virus viêm gan B được điều trị với liều hàng ngày 200 mg cao toàn cây diệp hạ châu đắng (loại bỏ rễ) trong 30 ngày. Kết quả 22/37 (59%) bệnh nhân được điều trị đã mất kháng nguyên bề mặt của viêm gan B khi làm xét nghiệm ở 15 - 20 ngày sau khi kết thúc điều trị, so với tỷ lệ 1/23 (4%) bệnh nhân đối chứng dùng placebo có hiện tượng này. Một số đối tượng được theo dõi tới 9 tháng, không có trường hợp nào kháng nguyên bề mặt xuất hiện trở lại. Không thấy có hoặc chỉ có ít tác dụng độc. Tuy vậy, hiệu quả của diệp hạ châu đắng trong điều trị những người mang virus viêm gan B không thật rõ ràng, có cả những trường hợp thành công và thất bại được báo cáo.

Cao nước diệp hạ châu đắng có tác dụng hạ đường máu ở thỏ bình thường và thỏ gây đái tháo đường với alloxan. Cao làm hạ đường máu ngay cả khi cho thỏ uống một giờ sau khi cho uống glucose, và hoạt tính hạ đường máu của diệp hạ châu đắng cao hơn tolbutamid. Hai flavonoid, ký hiệu FG) và FG2 thu được từ phân đoạn tan trong nước của cao cồn có tác dụng làm hạ đường máu khi cho chuột cống trắng gây đái tháo đường bằng alloxan uống. Toàn cây diệp hạ châu đắng có tác dụng gây hạ đường máu, hạ áp và lợi tiểu ở người. Cây cũng có hoạt tính kháng khuẩn và kháng nấm. Toàn cây làm giảm hoạt động của đường tiêu hóa, làm chậm sự tống thức ăn khỏi dạ dày chuột cống trắng, và gây giãn đáy dạ dày và hồi tràng. Cao cồn làm giảm khả năng sinh sản của chuột cống đực.

Ba hoạt chất từ diệp hạ châu đắng có tác dụng ức chế aldose reductase là acid elargie, brevifolin carboxylat và ethyl brevifolin carboxylat; acid elargie có tác dụng mạnh nhất, ức chế mạnh hơn sáu lần so với quercitrin là chất thiên nhiên ức chế aldose reductase đã biết. Cao nước lá có tác dụng đối kháng với hoạt tính làm gẫy gây bởi clorid kền ở tế bào tủy xương chuột nhắt trắng, làm giảm tỷ lộ % tế bào bị tổn thương cũng như tần suất gẫy ở mỗi tế bào do tác dụng của ba liều muối kền (10, 20 và 40 mg/kg thể trọng). Những dữ liệu cho thấy tầm quan trọng của chế độ ăn có bổ sung thực vật để làm giảm nhẹ tính độc hại tế bào của kim loại.

Tính vị, công năng

Diệp hạ châu đắng có vị hơi đắng, tính mát, có tác dựng tiêu độc, sát trùng, tán ứ, thông huyết, điều kinh, lợi tiểu, thống sữa.

Công dụng

Diệp hạ châu đắng được dùng làm thuốc trị viêm gan, vàng da, sốt, đau mắt, rắn cắn. Ngày dùng 20 - 40g cây tươi, giã lấy nước uống, hoặc sao khô sắc uống hoặc 8 - 16 g cây khô cũng sắc uống. Dùng ngoài, cả cây giã dấp hoặc giã lấy nước cốt bôi trị mụn nhọt, lở ngứa.

Diệp hạ châu đắng được dùng trong y học cổ truyền Thái Lan trị vàng da. Trong y học cổ truyền Ấn Độ, diệp hạ châu đắng là thuốc làm săn, khai thông, sát khuẩn, lợi tiểu, và được dùng trị vàng da, khó tiêu, lỵ, phù, các bệnh của hệ niệu - sinh dục, bệnh lậu và đái tháo đường. Nước sắc chồi non trị lỵ, rễ tươi trị vàng da, lá là thuốc lợi tiêu hóa, dịch ép lá dùng đắp trị lở loét. Người ta còn dùng lá và rễ khô tán nhỏ làm thành bột nhão đắp các vết sưng tấy và loét. Ở Peru, nhân dân uống nước sắc phần trên mặt đất làm thuốc lợi tiểu, trị sỏi mật và sỏi thận. Ở một số nước Nam Mỹ, diệp hạ châu đắng được dùng trị sốt rét, sỏi thận, sỏi bàng quang, các rối loạn về tiết niệu nói chung và còn có tác dụng gây sẩy thai.

Ở Haiti, nhân dân uống nước sắc lá diệp hạ châu đắng và tắm với nước ngâm lá để trị sốt. Từ đảo Hải Nam đến Indonesia, nhân dân uống nước sắc hoặc nước hãm diệp hạ châu đắng làm thuốc lợi tiểu trị bệnh thận và gan, bệnh hoa liễu, đau bụng, làm thuốc long đờm trị ho trẻ em, hạ sốt, điều kinh và trị tiêu chảy. Nước sắc toàn cây là thuốc bổ dạ dày. Lá giã nát đắp trị đụng giập và bệnh ngoài da. Ờ Papua Niu Ghinê, nước hãm toàn cây để nguội trị đau đầu hoặc nhức nửa đầu. Các thầy thuốc cổ truyền ở Tanzania dùng cao nước phần trên mặt đất của diệp hạ châu đắng trị bệnh đái tháo đường không phụ thuộc insulin. Ở Nigiêria, cao nước cây khô trị tiêu chảy, lá nhai nuốt nưốc trị ho kéo dài, và sắc uống làm đỡ đau dạ dày.

Ở Tây Ấn Độ, diệp hạ châu đắng được dùng trị giun trẻ em, và ở Rarotonga, trị đau tai. Ở Bờ Biển Ngà, nhân dân uống nước sắc lá để làm đẻ dễ trong trường hợp đẻ khó, trị vàng da, nôn, đau họng, đau gian sườn, đau mình mẩy kèm theo sốt và phù, đánh trống ngực, bệnh lậu, bệnh về da.

 

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC