Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần D

Dương Kỳ Thảo

11:04 20/04/2017

Tên nước ngoài: Nosebleed, the yaưovv, blood wort, carpenter's wood, devil's nettle (Anh); millefeuille, herbe aux charpentiers, saigne - nez (Pháp).

Họ: Cúc (Asteraceae).

Mô tả

Cây thảo, sống lâu năm, cao 40 - 80 cm. Thân hình trụ, mọc thẳng, ít phân nhánh. Lá mọc so le, không cuống, chẻ lông chim thành những phiến nhỏ rất hẹp, mép khía răng sâu.

Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành ngù đơn hay kép gồm nhiều đầu nhỏ; lá bắc thuôn, có lông; đầu có hoa hình lưỡi màu trắng và hoa khác màu hồng, không có màu lông; tràng hoa cái có lông dài bằng phần hình lưỡi; tràng hoa lưỡng tính có ống dẹt, 5 thùy.

Quả bế thuôn.

Toàn cây có mùi thơm như long não.

Mùa hoa: tháng 10 - 11.

Phân bố, sinh thái

Dương kỳ thảo phân bố rải rác từ vùng ôn đới ấm của châu Âu đến vùng cận nhiệt đới châu Á, bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ và Bắc Việt Nam. Ở một số vùng núi cao thuộc Malaysia, Philippin, Indonesia (Java) cây đã được trồng sau trở nên hoang dại hóa.

Ở Việt Nam, dương kỳ thảo chỉ thấy phân bố rất hạn chế ở vùng núi cao trên 1300 m, như Sa Pa, Bát Xát (Lào Cai); Phong Thổ (Lai Châu); Quản Bạ, Đồng Văn (Hà Giang). Theo Võ Văn Chi, 1997, cây còn có ở Đà Lạt (Lâm Đồng). Dương kỳ thảo là cây ưa sáng, hơi chịu bóng, thường mọc trên đất ẩm lẫn với các loài cỏ thấp khác ở bãi hoang ven rừng, trong thung lũng, ven đường đi hay trên các nương rẫy. Cây mọc từ hạt được thấy vào tháng 3 hàng năm, sinh trưởng nhanh trong mùa xuân - hè và ra hoa quả rất nhiều. Đến cuối thu hoặc đầu đông, toàn bộ phần trên mặt đất bị tàn lụi; phần gốc tồn tại qua mùa đông và sẽ mọc lại vào mùa xuân năm sau.

Những nghiên cứu về cây dương kỳ thảo mọc ở Bắc Việt Nam cho thấy, cây thường phân bố ở nơi có khí hậu ẩm mát quanh năm, nhiệt độ không khí trung bình từ 14 đến 16°c. Về mùa đông, cây có thể chịu được nhiệt độ thấp dưới 0°c, nhưng nếu gặp sương muối khoảng 3 ngày liền, cây sẽ bị chết (cây trồng làm mẫu ở Trại thuốc Sa Pa - Viện Dược liệu). Dương kỳ thảo gieo giống tự nhiên chủ yếu bằng hạt. Mặc dù số hạt của một cây rất nhiều, nhưng lượng cây con mọc lên xung quanh cây mẹ hạn chế. Thời gian trồng dương kỳ thảo thích hợp ở Sa Pa vào cuối mùa đông (khi cây đã lụi) hoặc đầu mùa xuân.

Có thể xếp dương kỳ thảo vào nhóm những cây thuốc hiếm gặp ở Việt Nam, cần chú ý bảo vệ.

Bộ phận dùng

Toàn cây, thu hái quanh năm, phơi hay sấy khô.

Thành phần hóa học

Dương kỳ thảo chứa 0,49% tinh dầu với thành phần chính là a -(p - pinen, L - camphor, borneol acid salicilic, caryophylol, apigenin - 7 - glucosid.

Các glucoalcaloid, mà thành phần chính là achilein, achiletin, moscatin và betonicin. Gần đây, các tác giả Trung Quốc còn tìm thấy flavonoid, viburnitol và achilin và một lượng nhỏ acid cyanic (HCN: 3 - 7 mg%).

Trong dương kỳ thảo còn chứa các hợp chất flavo - lignan như silybin, silidianin, silichriotin còn gọi là silymarin, các hợp chất thuộc nhóm azulen, các hợp chất sesquiterpen như gaianolid peroxid, các furocoumarin. Hoa dương kỳ thảo chứa các sesquiterpen như acid achimilic A, B, c, các flavonoid. Tinh dầu chiết từ dương kỳ thảo có chứa ascariđol a peroxyachifolid là 1 sesquiterpen peroxid.

Tác dụng dược lý

1. Tác dụng chống viêm: Cao chiết từ toàn cây dương kỳ thảo có tác dụng chống viêm rõ trên mô hình gây phù thực nghiệm ở chân chuột cống trắng. Thành phần có tác dụng đã xác định được là flavonoid. Azulen và các dẫn chất của azulen có tác dụng chống viêm là do ức chế sự tổng hợp prostaglandin. Tác dụng này đã chứng minh cho kinh nghiệm nhân dân dùng dương kỳ thảo chữa các bệnh phong thấp, xương khớp.

2. Tác dụng bảo vệ gan: Đã nghiên cứu tác dụng bảo vệ gan của một thuốc rất thường dùng để chữa bệnh gan mật ở Ấn Độ là Liv - 52, gồm có 7 vị là dương kỳ thảo, cốt khí muồng, bồ công anh hoa tím, lu lu đực, Capparis spinosa, Tamarix gaỉlica và Terminalia arjuna, lượng bằng nhau, dùng liều là 0,8 ml/kg tiêm phúc mạc trong 4 ngày liền, trên mô hình gây tổn thương gan thực nghiệm trên chuột nhắt trắng, có so sánh với liều 100 mg/kg silymarin (là hỗn hợp của các flavo ~ lignan: silybin, silydianin, silychristin). Kết quả cho thấy, carbon tetraclorid gây độc trên gan, nên hoạt tính của các enzym gan AST tăng lên 2 lần, ALT tăng 3 lần, so với lô bình thường. Silymarin ức chế sự tăng enzym gan tới gần mức bình thường, còn Liv - 52 có tác dụng bằng khoảng 60 - 70% so với silymarin. Trong những thí nghiệm khác, đã xác định thấy dương kỳ thảo có tác dụng kích thích sự tiết dịch tiêu hóa, gây trung tiện. Tác dụng trên gan và đường tiêu hóa đã chứng minh kinh nghiệm của nhân dân vẫn dùng dương kỳ thảo để kích thích làm cho ăn ngon, chữa chướng bụng, đầy hơi.

3. Tác dụng trên hệ thần kinh: Thí nghiệm ở Ấn Độ cho thấy, dương kỳ thảo có tác dụng ức chế trên hệ thần kinh trung ương. Azulen và các dẫn chất của azulen có tác dụng hạ sốt trên thực nghiệm. Kinh nghiêm nhân dân cũng dùng dương kỳ thảo để an thần, làm dịu thần kinh. Nhưng nếu dùng liều cao lại gây chóng mặt và đau đầu.

4. Tác dụng trên cơ trơn: Cụm hoa dương kỳ thảo có tác đụng chống co thắt nhẹ trong thí nghiệm trên mô hình hồi tràng thỏ cô lập. Tác dụng này do thành phần flavonoid trong hoa. Nhưng lại làm tăng co bóp tử cung.

5. Tác dụng chống ung thư: Các ester methylic của các sesquiterpen acid achimillic A, B và c được phân lập từ hoa dương kỳ thảo có tác dụng trên tế bào ung thư bạch cầu P-388 ở chuột nhắt trắng.

6. Tác dụng trên ký sinh trùng, côn trùng: Ascaridol là một monoterpen - peroxid và a - peroxyachifolid là một sesquiterpen - peroxid, có trong tinh dầu dương kỳ thảo, cả hai đều có tác dụng trên ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum in vitro. Tác dụng của ascaridol cũng tương tự như tác đụng của artemisinin là hoạt chất chiết từ cây thanh hao hoa vàng Artemisia annua L. Tác dụng của a - peroxyachifolid (nồng độ có hiộu quả diệt ký sinh trùng EC5Ũ = 1 ng/ml) yếu hơn nhiều (100 lần) so với artemisinin (EC50 = 0,01 ng/ml).

Ascaridol, như đã biết, còn có tác dụng tốt trên nhiều loại giun sán, đặc biệt là Ankylostoma, Ascaris, Necator và Trichuris (giun móc, giun đũa, giun mỏ và giun tóc).

Cao ethanol của loại dương kỳ thảo mọc ở Thụy Điển có tác dụng diệt ấu trùng và muỗi Aedes aegypti, là muỗi truyền vừus Dengue gây ra bệnh sốt xuất huyết.

7. Tác dụng trên sinh sản và giới tính: Chất thuyon chiếm tỷ lệ dến 30% trong tinh dầu dương kỳ thảo có tác dụng gây sẩy thai. Trong dương kỳ thảo có một chất dầu bay hơi, có mùi giống như một pheromon giới tính của con gián đực. Dương kỳ thảo cũng chứa chất ức chế sự nảy mầm của hạt. Ngâm hạt trong dịch chiết dương kỳ thảo sẽ làm giảm và chậm sự nảy mầm.

8. Tác dụng trên huyết áp, trên máu: Cao khô chiết bằng cồn 50% toàn cây dương kỳ thào cỏ tác dụng hạ huyết áp ở mèo. Dịch chiết dương kỳ thảo có tác dụng cầm máu, làm giảm thời gian đông máu.

9. Dộc tính: Dương kỳ thảo tương đối ít độc. Tiêm phúc mạc liều 1000 mg/kg cao khô toàn cây chiết bằng cồn 50% cho chuột nhắt trắng, không có con chuột nào chết. Tuy nhiên, các sesquiterpen lacton như guaianolid peroxid trong dương kỳ thảo có thể gây viêm da dị ứng; chất furanocoumarin có thể gây ra viêm da ánh sáng (photodermatitis). Dùng liều cao cho người sẽ gây chóng mặt, nhức đầu.

Tính vị, công năng

Dương kỳ thảo có vị ngọt, đắng, cay, tính hàn, hơi độc có tác dụng tiêu thực, thanh nhiệt, giải dộc, lương huyết, chỉ thống, điều kinh.

Công dụng

Dương kỳ thảo được dùng trong cả y học cổ truyền và y học hiện đại, có trong dược điển của nhiều nước phương tây. Y học hiện đại dùng dương kỳ thảo để cầm máu, chống co thắt, lợi tiểu, hạ sốt, chống viêm và kích thích tiêu hóa.

Y học cổ truyền cũng dùng dương kỳ thảo để chữa các trường hợp tương tự. về cầm máu, dịch chiết dương kỳ thảo chữa xuất huyết tiêu hóa, chảy máu cam, trĩ hoặc răng lợi chảy máu. Do có tác dụng kích thích tiêu hóa, lợi mật, bảo vệ gan, dương kỳ thảo được dùng chữa rối loạn tiêu hóa, chán ăn, đầy chướng bụng, tiêu chảy. Với tác dụng chống viêm, dương kỳ thảo được dùng chữa thấp khớp, đau nhức xương. Nhờ tác dụng ức chế thần kinh trung ương, dương kỳ thảo được dùng để an thần, làm dịu thần kinh, chữa mất ngủ. Dương kỳ thảo cũng chữa kinh nguyệt không đều, hành kinh đau bụng, rối loạn tiền mãn kinh, sỏi tiết niệu, sỏi mật, ho, hen phế quản. Ngày 10 - 30g cành mang hoa dưới dạng thuốc hãm, thuốc sắc hoặc ngâm rượu uống. Để chữa thấp khớp, điều kinh thường dùng toàn cây có hoa, ngày 30 - 60g sắc uống. Dùng ngoài cây tươi, giã, đắp chữa lở, ngứa, viêm da, mụn nhọt, cầm máu vết thương, trĩ.

Dương kỳ thảo còn được dùng chế mỹ phẩm để dưỡng da, dưỡng tóc, làm xà phòng gội đầu để chống rụng tóc, làm cho tóc khỏe, nấu nước tắm để tránh ra mồ hôi. Có thể dùng hoa hoặc tinh dầu dương kỳ thảo để thay cho hoa húp lông trong sản xuất bia.

Bài thuốc có dương kỳ thảo

Trong cuốn "Dược thảo và y học dân gian" của Bungari năm 1992, có gần 60 bài thuốc có dương kỳ thảo trong đó chữa chán ăn, chướng bụng có 4 bài, viêm dạ dày 4 bài, loét dạ dày 4 bài, giãn tĩnh mạch và trĩ 5 bài, sỏi mật 4 bài, bệnh gan mật khác 5 bài, sỏi tiết niệu 3 bài, rong kinh 5 bài, rối loạn kinh nguyệt 4 bài... Sau đây là một số bài:

1. Chữa chán ăn, tiêu hóa kém: Dương kỳ thảo 60g, rễ long đởm 15g, rễ Angelica pancicii Vandas 40g, toàn cây Marrubium vulgare L 40g. Tất cả phơi sấy khô, tán bột. Mỗi lần 10g hãm uống trước khi ăn 30 phút.

2. Chữa kinh nguyệt không đều: Dương kỳ thảo, vân hương, rễ cây hiệt thảo Valeriana officinalis L., lá bạc hà, toàn cây cỏ ba lá Trifolium fibrinum L., và hoa cây cam cúc, mỗi vị 30g. Tất cả phơi sấy khô, tán thành bột. Ngày 20 - 30g sắc kỹ, chia làm 3 lần, uống sau khi ăn. Dùng 2-3 tháng.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC