Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần M

14:05 23/05/2017

Mơ có tên đồng nghĩa: Armeniaca vulgaris Lamk.

Tên khác: Mai, hạnh, má pheng (Thái).

Tên nước ngoài: Apricot (Anh), abricot (Pháp).

Họ: Hoa hồng (Rosaceae).

Mô tả

Cây nhỏ, cao 4 - 5m, có khi hơn. Cành non màu nâu hồng. Lá mọc so le, hình trứng, dài 6 - 8cm , rộng 3 - 4cm, gốc tròn hay hình tìm, đầu thuôn thành mũi nhọn ngắn, mép khía răng nhỏ, hai mặt có lông tơ ở lá non, sau nhẵn hoặc có ít lông ở các gân; cuống lá dài 1 - l,5cm.

Hoa mọc đơn độc ở kẽ những lá đã rụng, có cuống ngắn, màu trắng, thơm; đài hình bánh xe, 5 răng nhỏ; tràng 5 cánh mỏng; nhị nhiều xếp thành 2 vòng; bầu thượng, một ô. Quả hạch, hình cầu, có lông tơ mịn, khi chín màu vàng, đẩu quả hơi nhọn, mặt bên có một đường rãnh; hạt nhẵn. Mùa hoa: tháng 1 - 2 ; mùa quả: tháng 4-5.

Còn có loài song mai cũng thuộc giống mơ, nhưng khác ở chỗ mỗi hoa song mai đậu hai quả dính nhau, mỗi quả to hơn quả mơ thường, có mùi thơm.

Mơ và tác dụng chữa bệnh của nó

Phân bố, sinh thái

Cũng như đào và mận, mơ có nguồn gốc từ Trung Quốc hay Nhật Bản. Ở đây cây được trồng từ lâu đời, sau lan xuống Việt Nam, Lào và Thái Lan. Ở Việt Nam, mơ được trổng phổ biến ở các tỉnh từ Thanh Hoá trở ra, nhiều nhất là Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu (Điện Biên, Tuần Giáo), Hoà Bình, Hà Tây (vùng xung quanh Chùa Hương), Vĩnh Phúc (Tam Dương, Lập Thạch)... ở miền Nam không thấy trồng mơ.

Mơ là cây của vùng ôn đới ẩm và cận nhiệt đới, ưa khí hậu ôn hoà, nhiệt độ trung bình dưới 24°c. về mùa đông, cây có thể tồn tại ở nhiệt độ thấp tới 0°c. Cây ưa sáng, rụng lá mùa đông; hoa nở vào đầu xuân trước khi ra lá; thụ phấn nhờ côn trùng. Tỷ lệ dậu quả thường rất cao. Cây có khả năng mọc cây chồi tù rễ. Loại chồi này có thể sử dụng làm cày giống để trồng

Cách trồng

Mơ được coi là cây ưa nóng nhất trong các cây ăn quả thuộc họ Hoa hồng, nhưng nhất thiết phải có rét, tốt nhất là 4 - 7°c, vào tháng 12-1 trước khi ra hoa. Năm nào không có rét thì năm đó mất mùa mơ. Vì vậy, mơ chỉ được trồng ở miền Bắc. Các tỉnh trồng nhiểu mơ là Hà Tây, Hoà Bình, Hà Nam và Ninh Bình. Có nhiều giống mơ, khác nhau về hình thái, chất lượng và thòi gian chín của quả. Phổ biến nhất là giống mơ vàng, còn gọi là mư Chùa Hương.

Mơ có thể nhân giống bằng chiết, ghép hoặc bằng hạt. Muốn có nhiều cây con để trồng trên diện tích lóa thì áp dụng phương pháp nhân giống bằng hạt. Hạt mơ phải tốt, lấy từ cùng một cây 10 - 20 năm tuổi. Hạt có vỏ cứng, phải trải qua thời gian ngủ nghỉ bắt buộc khoảng 4-6 tháng, nên cần ủ trong cát ẩm, khi bắt đầu nảy mầm mới đem ươm ở vườn ươm, vối khoảng cách 30 X 50cm. Mỗi luống trồng 2 hàng, khoảng cách giữa hàng luống nọ và hàng luống kia khoảng 1 - l,1m. Khi cây cao 0,8 - 1m, đánh di trồng. Nếu dùng làm gốc ghép thì sau 6-7 tháng, đường kính thân đạt 5 - 7mm, có thể ghép. Thời gian ghép tốt nhất là tháng 2-3 hoặc tháng 9. Mắt ghép hoặc cành ghép đều phải chọn ở những đoạn cành bánh tẻ của cành xiên phía ngoài tán. Ghép xong, cắm cọc đỡ để cành ghép không bị gió lay bong ra. Sau một thời gian, cần bấm ngọn để cành ghép mập, không đài quá. Sau khi ghép 18-24 tháng, có thể đánh đi trồng. Còn có thể ghép mơ lên gốc dào hoặc mận.

Mơ cũng có thể nhân giống bằng phương pháp chiết cành đơn giản. Nên lấy cành to, cành xiên ở phía ngoài. Mùa chiết tốt nhất là tháng 5-6 khi đã thu hoạch quả. Nhân dân thường có kinh nghiệm trồng mơ ờ khe núi, vừa có đất tốt, vừa ít bị ảnh hưởng của gió mùa đông bắc. Trồng ở quanh nhà, ven đồi, ven sông cũng được. Cây ưa đất đá vôi, pH trên 6, tầng đất mặt sâu, đủ ẩm, thoát nước, đủ ánh sáng.

Thời vụ trổng mơ tốt nhất là tháng 11 - 12, khi cây đã rụng lá, ngừng sinh trưởng. Lúc này có thể trồng rễ trần vẫn đạt tỷ lệ sống cao. Đào hố 50 X 50 X 50cm, bón lót mỗi hố 30 - 40 kg phân chuồng hoai. Trên đất tốt gần nhà, có thể trồng khoảng cách 6 X 8m, ở đất đồi xa nhà, ít có điều kiện thâm canh nên trồng dày hơn, khoảng 4 X 4 m. Trồng xong, cần chăm sóc ngay vì mơ sinh trưởng tập trung vào tháng 1 đến tháng 4, nếu không sẽ 15 mất một mùa sinh trưởng. Đặc biệt, cần tưới đủ nước. Có thể dùng rơm, rác, cỏ khô phủ gốc, trồng xen các cây họ lúa, rau đậu, cây phân xanh để giữ độ ẩm và hạn chế cỏ dại. Không trổng xen cây họ Cà, cây Bầu bí.

Những năm đầu, cần bón thúc 2-3 lần vào các tháng 2 - 3, 6 - 7 và 9 - 10. Khi cây đã có hoa quả, chỉ bón 2 lần vào trước khi ra hoa (tháng 9 - 10) và sau khi thu quả (tháng 4 - 5). Lượng phân bón đối vối cây còn nhỏ khoảng 90 - 100 kg N và 60 - 80 kg p205/ha. Khi cây có quả, bón 160 kg N, 60 kg p205 và 200 kg KjO/ha. Nếu có phân chuồng thì giảm bớt phân khoáng, 1 tấn phân chuồng tính tương đương với 3 kg N, 2 kg P2Oj và 4 kg K20. Ngoài ra, còn có thể bón thêm vi lượng (Bo, Zn). Phân vi lượng phun khi quả còn nhỏ có tác dụng chống rụng quả rất tốt.

Mơ rụng lá hàng năm, lúc này cần đốn tỉa. Nếu đốn tỉa đúng kỹ thuật, có thể tăng năng suất tới 30 %. Mơ bị khá nhiều sâu bệnh hại. Sâu chính là bọ cánh cứng mình dẹt (Adoretus compressus) hại lá mơ non vào ban đôm. Diệt trừ bằng các thuốc chứa lân hữu cơ. Ngoài ra, còn có các loại rệp, nhện hại lá, cành, quả . Bệnh chủ yếu là bệnh chảy gôm (PseudomonasX trị bằng Bordeaux hoặc clorua oxyd đồng. Bệnh thối rễ (Armillaria và Rosellinia) tạo thành một màng tơ trắng giữa vỏ và gỗ làm thối rễ gây chết cây. Phòng chủ yếu bằng chọn giống chống sâu bệnh và luân canh. Mơ chín từ tháng 3 đến tháng 5, tuỳ theo giống. Khi vỏ quả chuyển từ xanh sang vàng là có thể thu hái, năng suất ước tính đạt 8 - 10 tấn/ha/năm.

Bộ phận dùng

Quả và hạt. Quả mơ được chế bạch mai (còn gọi là diêm mai) hoặc ô mai. Để chế bạch mai, người ta thu hái quả chín, tãi mỏng, dùng muối sát đều, bỏ vào vại sành, muối 3 ngày, 3 đêm thì vót ra, phơi cho tái, rồi lại cho vào vại muối thêm một ngày 1 đêm nữa, phơi cho thật khô. Muối thấm vào quả mơ kết tinh thành một màng trắng. Muốn chế ô mai, thu hái những quả thật già, tãi mỏng ở những nơi mát trong 3 ngày cho héo. Sau đó cho vào nước đun sôi đến khi da mơ nhăn lại, rồi đồ và phơi. Làm như vậy 6-7 lần đến khi quả mơ tím đen là được (Đồ Tất Lợi, 1999).

Hạt mơ thu bằng cách loại bỏ thịt, rồi đem phơi hay sấy cho khô. Khi dùng, đập vỡ hạt lấy nhân, đem chần bằng nưốc sôi, rồi sao vàng. Trưóe khi dùng, phải đập và chia nhỏ (Dược điển Trung Quốc, bản in tiếng Anh, 1997).

Tác dụng dược lý

Nước quả mơ pha đường đã được áp dụng cho công nhân thuỷ tinh làm việc ở khu vực có nhiệt độ cao thường xuyên và sirô nước muối mơ (dư phẩm chế ô mai) cho 102 công nhàn làm việc ở lò nung xí nghiệp xi măng có tác dụng làm đỡ khát nước, giảm lượng mồ hôi, giảm lượng nước uống và giảm lượng muối mất đi do mổ hôi trong lao động. Một số trường hợp có hồng cầu vi thể trong nước tiểu đã hết hồng cáu sau khi uống sirô mơ. Qua đo lực của cơ bàn tay và định lượng mucoprotein trong nước tiểu sau một ca làm việc, nhận thấy sirô mơ có tác dụng chống mệt mỏi rõ rệt.

Lá mơ đã được nghiên cứu thực nghiệm thấy có tác dụng lợi tiểu. Chất amygdalin và men làm phân rã có trong những tế bào khác nhau của nhân hạt mơ khi tiếp xúc chặt chẽ với nhau trong quá trình nhai hoặc ngậm sẽ cho acid hydrocyanic. Acid này là chất độc mạnh gày ngộ độc và chết ở liều nhỏ. Do tác dụng giảm oxy máu của acid hydrocyanic trên các tế bào của hệ thần kính trung ương và sự cảm thụ cao của những tế bào này dối với sự giảm oxy máu, hoạt động của nhũng bộ phận quan trọng đối với đời sống của hệ thần kinh trung ương bị rối loạn: hô hấp, vận mạch và những trung tâm khác. Chết do ngộ độc acid hydrocyanic xảy ra do liột hô hấp. Khi uống liều nhỏ amygdalin, chất HCN chỉ giải phóng từ từ sẽ cổ tác dụng trấn tĩnh trung khu hô hấp, do đó dùng để chữa ho. Gần đây với sự phát hiện ra vitamin B15 trong hạt mơ, một số tác dụng của rượu mơ dùng cho người có tuổi có thể được giải thích.

Một bài thuốc cổ truyền đã được dùng rừ lâu đời ở Nhật Bản để chữa hen, gồm hạt mơ, ma hoàng, cam thảo, thạch cao. Tác dụng của từng dược liệu và của cả bài thuốc đã được nghiên cứu trong thí nghiệm bộc lộ phế quản chuột lang và kích thích với lông lợn để gây ho. Ma hoàng có liều EDS0 thấp nhất, và bài thuốc có liều thấp nhất tiếp theo.

Trong một thí nghiệm khác, gây ho trên chuột nhắt bằng cách cho ngửi một lượng nhất định sulfur dioxyd và đếm những cơn ho. Kết quả thí nghiệm cho thấy hạt mơ có vai trò chống ho mạnh hơn ma hoàng. Sulfur dioxyd là một khí thải công nghiệp thường gây ho cho nhân dân sống trong vùng bị ô nhiễm. Ho là một hiện tượng sinh lý có hàng loạt nguyên nhân khác nhau, và bài thuốc cổ truyền Nhật Bản được coi là có những chức năng tương ứng, nén được áp dụng nhiều hơn là các dược liệu riêng rẽ.

Tính vị, công năng

Ô mai có vị chua, bạch mai có vị chua, mặn, có tính mát, giảm ho, sinh tân dịch.

Công dụng

Ô mai được dùng trong nhân dân làm thuốc giảm ho, trừ đờm, chữa viêm họng, hen suyễn, khó thở, phù thũng, tả lỵ ra máu, nôn mửa, ngày dùng 4 - 8g dạng thuốc sắc hoặc ngậm. Còn dùng ô mai để chữa giun (phối hợp với các vị thuốc khác); đặc biệt trong trường hợp giun chui ống mật, ô mai có tác dụng tạo môi trường acid làm cho gian chui khỏi ống mật trò về ruột và bị tống ra.

Rượu mơ dùng làm thuốc bổ giúp ăn ngon cơm, dỡ khát nước.Có thể pha nước uống giải khát. Dầu hạt mơ làm thuốc bổ, thuốc nhuận tràng với liều 5 - 15ml dưới hình thức thuốc sữa. Dầu hạt mơ còn dược dùng làm thuốc bôi trừ nẻ, bôi tóc cho trơn và bóng. Nước cất hạt mơ chữa ho, khó thở, nôn mửa, đau dạ dày. Mỗi lần dùng 0,5 đến 2ml. Cả ngày có thể dùng 2 đến 6ml. Liều tối đa một lần 2ml, liều tối đa cả ngày 6ml. Nước cất hạt mơ có độc, dùng phải cẩn thân. Gôm mơ có tác dụng nhũ hoá mạnh hơn gôm arabic. Có thể dùng gôm mơ làm tá dược dính cho viên nén, viên tròn dưói dạng dịch thể hoặc bột khô. Độ dính của gôm mơ mạnh hơn gôm adragan và gôm arabic. Qua thử độc tính thấy gôm mơ không gây độc hại cho cơ thể.

Theo tài liệu nước ngoài, trong y học Trung Quốc, người ta dùng hạt mơ làm thuốc an thần, giảm ho và chữa nấc. Hạt mơ phối hợp với những vị thuốc khác để trị ho gà, viêm phế quản, viêm khí quản và thanh quản, viêm thận. Dầu hạt mơ dược pha chế thuốc mỡ, gôm mơ được dùng làm thực phẩm.

Bài thuốc có mơ

1. Chữa đau họng hoặc ho lâu bị mất tiếng (Hải Thượng Lãn Ông): Mơ chín vàng 100 quả, nước quả chanh một chén, mật ong 8 lạng, cam thảo 1 lạng. Tất cả nấu nhừ, bỗ bã rồi có thành cao mà ngậm.

2. Chữa ho lâu năm: Mơ muối, thiên môn, mạch môn, bách bộ, vỏ rễ dâu (lượng bằng nhau). Các dược liệu phơi khô, trừ mơ muối, tán nhỏ, luyện với mật ong và nước gừng, làm viên bằng hạt nhãn, mỗi lần dùng một viên ngậm và nuốt dần.

3. Chữa ho lâu ngày, khản tiếng, viêm phế quản, viêm họng: Ô mai 4g, lá tre 8g, tô mộc 8g, cam thảo dây 5g, chua me dất 5g, lá chanh 4g, gừng sống 2g, nước 500ml. Sắc còn 250ml, chia 2 lần uống trong ngày.

4. Chữa tả lỵ, ra máu: Ổ mai đốt cháy tồn tính, cho vào nấu cháo với gạo tẻ, ăn nhiều lần.

5. Chữa kiết lỵ: Mơ 20 quả, nước 1 bát, sắc còn 6/10, uống vào lúc đói. Hoặc ô mai 2-3 quả, thêm nước vào đun sôi, giữ sôi 15 phút. Dùng uống thay nước trong ngày.

6. Chữa trẻ con đại tiện ra máu: Rễ cây mơ (bỏ vỏ ngoài), một nắm, rửa sạch sắc cho uống.

7. Chữa ho nhiệt, khạc ra đờm có máu: Ô mai, hoa hoè sao, dành dành sao, vỏ rễ dâu, môi vị 12g. Sắc uống.

8. Chữa băng huyết: Ô mai 7 quả, thiêu tồn tính, tán nhỏ, chia làm 3 lần uống trong ngày. Dùng nước cơm đổ chiêu thuốc .

9. Chữa sốt rét cơn: Ô mai bỏ hạt 4 quả, thường sơn (đồ vối giấm, phơi khô tán nhỏ) 8g, giã nhỏ làm viên, uống với rượu vào sáng sớm, trước khi lên cơn.

10. Chữa chứng tiêu khát, uống nhiêu nước và nóng trong xương: Ô mai bỏ hạt 80g, sao qua tán nhò, mỗi lần dùng 8g với đậu sị (đậu đen đồ ỏ lên men) 200 hạt, sắc uống hoặc nấu ăn vào lúc đói.

11. Chữa tiêu chảy cấp tính do nhiễm khuẩn: Ô mai 12g; bạch biển đậu 20g; sa nhân, thào quả, sắn dây, mỗi vị 12g; cam thảo 6g. Tán bột làm thành viên, mỗi ngày uống 20g với nước chò đặc.

12. Chữa lỵ mạn tính: Ô mai 8g; đảng sâm 16g; hoàng liên, hoàng bá, đương quy, mỗi vị 12g; xuyên tiêu, tế tân, can khương, quế chi, mỗi vị 6g. Tán bột, uống mỗi ngày 20g, hoặc dùng thuốc thang, sắc uống.

13. Chữa giun chui ống mật:

a. Dùng bài thuốc số 12 nêu trên (bài Ô mai hoàn gia giảm).

b. Ô mai 16g; sử quân tử 12g; hạt cau, mộc hương, chỉ thực, mỗi vị 8g. sắc uống ngày 1 thang. Kết hợp với châm cứu.

14. Chữa sốt rét mạn tính có lách to (bải thuốc Miết giáp tán): Ô mai 8g; miết giáp 16g; bạch truật, hoàng kỳ, mỗi vị 12g; thảo quả, binh lang, xuyên khung, thanh bì, bạch thược, cam thảo, hậu phác, gừng, mỗi vị 8g. Tán nhỏ thành bột, một ngày uống 40g (sắc uống) hoặc mỗi ngày 1 thang.

15.    Thuốc làm hoại tử rụng trĩ (Khô trĩ tán): Ô mai 100g, phèn chua 400g, thần sa 360g, thạch tín 160g. Tán bột, rắc vào trĩ.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC