Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần M

Mộc Nhĩ Trắng

11:07 12/07/2017

Tremetla fuciformis Bcrk.

Tên khác: Ngân nhĩ, bạch mộc nhĩ, nấm ruột gà, tuyết nhĩ.

Tên nước ngoài: Snow fungus, silver ear fungus, white jelly fungus, white fungus (Anh).

Họ: Ngân nhĩ (Tremellaceae).

Mô tả

Quả thể có dạng bản mỏng, màu trắng - trong, phân nhánh không theo quy luật nhất định, với các thùy mỏng, lượn sóng, kích thước các thùy lớn có thể tới 3 - 6 cm về chiều ngang (rộng) và 2 - 3 cm về chiều cao (dọc). Toàn bộ thịt nâu (thực chất là quả thể) là dạng chất keo. Sợi nấm dưới kính hiển vi thấy có vách mỏng, bề ngang sợi 2,5 - 3um với nhiều "khóa" trên vách ngăn ngang. Đàm (túi bào tử) hình trứng hoặc gần hình cầu, kích thước 10 - 12 X 9,5 - 10,5um; đảm bào tử hình cầu, không màu, đường kính 4 - 6nm.

Mùa có quả thể và bào tử: rải rác trong mùa mưa ẩm.

Phân bố, sinh thái

Chi Tremella Pers trên thế giới có khoảng vài chục loài. Ở Trung Ọuốc đã biết khoảng ba chục loài, riêng ở Đài Loan có 26 loài (Chen C. J„ 1998). Ở Việt Nam có 4 loài, trong đó có loài mộc nhĩ trắng trên phân bố ở Hà Tây cũ (Ba Vì), Vĩnh Phúc (núi Tam Đảo), Ninh Bình (Cúc Phương), Nghệ An (Pù Mát) và Thừa Thiên - Huế (Bạch Mã). Loài nấm này cũng có ở Trung Ọuốc (bao gồm cả Đài Loan). Nhật Bản và ở một vài nước khác ở Đông Nam Á.

Mộc nhĩ trắng là loại nấm hoại sinh, thường mọc trên gỗ mục của nhiều loài cây lá rộng ở rừng kín thường xanh ẩm. Điều kiện sinh thái quan trọng nhất để loài nấm này có thế sinh trường và phát triển được là môi trường ẩm ướt, ít ánh sáng trực xạ (dưới tán rừng hoặc được che bóng) và nhiệt độ không khí trung bình năm dưới 20°c. Tuy nhiên, đây cũng là loài nấm hiếm gặp và có quần thể nhỏ trong tự nhiên. Vì thế, đã có người đề nghị đưa mộc nhĩ trắng vào Danh lục Đỏ và Sách đỏ Việt Nam (Đoàn Văn Vệ, 2010).

Mộc nhĩ trắng là loài nấm ăn quý nên đã được đưa vào nuôi trồng cách đây trên 100 năm ở tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc). Ở Việt Nam cũng đã nuôi trồng thí nghiệm thành công, nhưng chưa được đưa vào sản xuất, có thể nhân dân ta chưa quen ăn loại nấm bổ dưỡng này (Đoàn Văn Vệ, 2010).

Bộ phận dùng

Thể quả.

Thành phần hoá học

Theo “Trung dược đại từ điển” (1993) vol.I, 1631, mộc nhĩ trắng chứa các nhóm chất sau: tremelan 1, reinelan, ergosterol (16,8%), ergosta - 7 - en - 3ß - ol (28,5%), phosphatidylethanolamin, phosphati - dylcholin, phosphatidylglycerol, phosphatidylserin phosphatidylinositiol, manosidase, N - acetyl - d - hexosaminidasa và các nguyên tố đa, vi lượng.

Tác dụng dược lý

1. Tác dụng kích thích miễn dịch

Đã xác định được tác dụng kích thích miễn dịch của dịch chiết mộc nhĩ trắng (Wang et al., 1983); Polysaccharid (PS) chiết từ mộc nhĩ trắng đối kháng với tác dụng ức chế miễn dịch do cyclosporin (Ma et al., 1992).

Cũng đã nghiên cứu tác dụng của polysaccharid trên đáp ứng miễn dịch tế bào và miễn dịch thể dịch trên gà bị nhiễm Eimeria tenella. Thí nghiệm được tiến hành trên 90 con gà giò chia làm 3 lô, mỗi lô 30 con. Lô 1 không gây nhiễm và không dùng PS để làm đối chứng; lô 2 gây nhiềm E. teneỉla và không dùng PS; lô 3 gây nhiễm E. tenella, sau đó, từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 14 cho gà ăn thức ăn có tỷ lệ PS là 1 g/kg thức àn Đến ngày 14 và ngày 21 kể từ ngày gây nhiễm E. tenella, xác định kháng thể trong máu và niêm mạc manh tràng; sự tăng sinh tế bào đơn nhân lách. Kết quả cho thấy, sự sản xuất IgA và IgM đặc hiệu vào ngày thứ 14 và 2], cũng như sản xuất IgG vào ngày thứ 21 sau khi gây nhiễm ở lô 3 tăng có ý nghĩa so với lô 2. Sự sản sinh kháng thể ở niêm mạc manh tràng cũng tăng tương tự như kháng thể trong huyết thanh. Sự tăng sinh tế bào đơn nhân lách đặc hiệu với kháng nguyên ở ngày 14 và 21 ở lô 3 cao hơn có ý nghĩa so với lô 2 (Guo et al., 2004).

2. Tác dụng trên cytokin

Polysaccharid (PS) được phân lập từ mộc nhĩ trắng đã được nghiên cứu in vitro trên sự sản sinh IL - 2 của tế bào đơn nhân lách chuột nhắt trắng. PS (ở nồng độ 1; 5; ] 0 và 50 ng/ml) làm tăng có ý nghĩa 1L - 2. Ở chuột già, mức độ sản xuất IL - 2 thấp hơn nhiều so với chuột còn non. Tuy nhiên ở nồng độ PS 0,05; 0,5 và 5 ug/ml, các tế bào đơn nhân lách ở chuột già lại sản sinh ra IL - 2 tới mức xấp xỉ ở chuột non. Ngoài ra PS ở nồng độ 0,05; 0,5 và 5ug/ml đối kháng được một phần tác dụng ức chế của hydrocortison trên sự sản xuất IL - 2 (Ma et al„ 1992).

Ba heteroglycan Tla, Tlb và Tlc có phân tử lượng theo thứ tự là 53000, 18000 và 12000 D đã phân lập được từ mộc nhĩ trắng. Đã xác định được TIa và Tlc làm cho bạch cầu đơn nhân to (monocyte) ở người sản xuất ra interleukin - 1 và interleukin - 6, cũng như yếu tố hoại tử u in vitro. Khi thủy phân bằng acid Tla, sẽ thu được các phân đoạn TI a - 1, 2, 3, 4, 5 có phân từ lượng từ 53000 đến 1000 D cũng làm cho các bạch cầu đơn nhân to tiết ra interleukin - 6 với mức độ cao. Điều đó chứng tỏ rằng, hoạt tính là do cấu trúc chung của (1 —> 3) - mannan và sự thay đổi về khối lượng phân tử không có ảnh hưởng rõ đến hoạt tính các heteroglycan (Gaoo et al., 1996).

Bốn polysaccharid (PS) T2a, T2b, T2c, và T2d có phân tử lượng theo thứ tự là 410, 250, 34 và 20 kDa phân lập được từ mộc nhĩ trắng cũng làm bạch cầu đơn nhân to của người sản sinh ra IL - 1, IL - 6 và yếu tố hoại tử u in vitro. Các sản phẩm thoái giáng Smith (để loại bỏ các gốc xylosyl) và thoái giáng do lithi (để loại bỏ các gốc acid glucuronic) của T2a và sản phẩm khử acetyl của Tib cũng vẫn làm bạch cầu đơn nhân tiết IL - 1 như các PS T2a và T2b, chứng tỏ ràng các gốc xylosyl và gốc acid glucuronic cũng như các nhóm acetyl không có vai trò trong việc kích thích sản xuất ra các cytokin (Gao et al., 1997).

Thủy phân không hoàn toàn T3 (một polysaccharid được phân lập từ mộc nhĩ trắng) đã thu được một mannan (M) và một heteroglycan (H). Cho M và H liên kết với vi hạt albumin (albumin microbead) nhờ phản ứng amin hóa khử, rồi cũng thử trên sự sản sinh cytokin của bạch cầu đơn nhân. Kết quả cho thấy các chất liên hợp có tác dụng kích thích sản sinh cytokin cỏ ý nghĩa trong thí nghiệm in vitro; vi hạt albumin không có tác dụng; còn M và H chỉ có hoạt tính kích thích cytokin ở nồng độ cao hơn 100 lần (Gao et al., 1998).

3. Tác dụng hạ cholesterod huyết

Mộc nhĩ trắng có tác dụng làm hạ cholesterol huyết. Nguyên nhân có thể là do mộc nhĩ trắng có chứa một chất nhựa, cỏ thể liên kết được với cholesterol và acid mật ở trong ruột và thải trừ theo phân, làm giảm tái hấp thu cholesterol vả acid mật vào tuần hoàn [K.ee, 1999: 117].

4. Tác dụng hạ glucose huyết

Glucuronoxylomannan (GM), một polysaccharid acid được phân lập từ quả thể của mộc nhĩ trắng, khi tiêm phúc mạc, có tác dụng hạ glucose huyết có ý nghĩa ở chuột nhắt trắng bình thường và chuột đái tháo đường do streptozotocin (STZ). Tác dụng này phụ thuộc vào liều dùng. Hoạt tính của các dẫn chất của GM như sản phẩm của GM đã cắt bỏ mạch nhánh, có tác dụng hạ glucose huyết kém hơn GM. GM làm tăng hàm lượng insulin trong huyết tương ở chuột bình thường, làm tăng có ý nghĩa hoạt tính của hexokinase gan và gluose - 6 - phosphat - dehydrogenase, nhưng làm giảm gluose - 6 - phosphatase ở gan. Ngoài ra, GM làm giảm hàm lượng glucogen gan, giảm hàm lượng cholesterol trong huyết tương, và làm tăng lipid toàn phần ở mô mỡ của mào tinh hoàn. Như vậy, tác dụng làm hạ glucose huyết của GM là do tăng tiết insulin và thúc đẩy chuyển hóa glucose. Uống GM một liều duy nhất 50 - 300 mg/kg không ảnh hưởng đến hàm lượng glucose huyết trong huyết tương ở chuột nhắt trắng bình thường, nhưng nếu cho chuột uống dung dịch GM (0,75g/[) thay cho uống nước trong một thời gian dài, glucose huyết giảm. Ở những chuột này, tiêm phúc mạc 1 lần streptozocin với liều 170 mg/kg, glucose huyết giảm có ý nghĩa so với chuột bính thường được tiêm streptozocin (Kiho et al., 1994).

5. Tác dụng hỗ trợ chống u và chống u

Mitomycin c (MMC) được dùng chữa một số loại ung thư trong đó có ung thư bạch cầu. Các chất liên hợp của MMC với glucuronoxylomannan (AC, được phân lập từ mộc nhĩ trắng) đã được tổng hợp nhờ các chất kết nối là glycin (G), glycylglycin (GG) và glycylglycylglycin (GGG) để tạo thành các chất liên hợp theo thứ tự là MMC - G - ACP; MMC - GG - ACP và MMC - GGG - ACP. Tác dụng chổng u của các chất liên hợp này đã được thử ở chuột nhắt trắng bị nhiễm tế bào ung thư bạch cầu dòng P388, thấy tỷ lệ tế bào ung thư bạch cầu còn sống sót có cao hơn một chút so với lô dùng MMC. Thử trên u rắn do tế bào sarcoma 180 ở chuột nhắt trắng, cũng thấy các chất liên hợp có tác dụng kém hơn một chút so với MMC. Tuy nhiên, số tế bào bạch cầu bình thường ở lô dùng chất liên hợp giảm ít hơn so với lô dùng MMC. Thí nghiệm in vitro trên tế bào ung thư bạch cầu chuột nhắt trắng dòng LI210, tác dụng của các chất liên hợp tương đương MMC. Người ta cho rằng, các chất liên hợp giải phóng dần ra MMC và gây nên tác dụng. Tốc độ giải phỏng MMC từ các chất liên hợp in vitro (nửa đời giải phóng MMC) là: MMC - G - ACP, 8,8 giờ; MMC - GG - ACP, 3,1 giờ và MMC - GGG - ACP, 2,9 giờ. Nghiên cứu này cho những thông tin có ích về các đại phân từ mang thuốc trong hệ giải phóng thuốc (Ukai et al., 1992). Cũng có nghiên cứu cho thấy, chính polysaccharid của mộc nhĩ trắng cũng có tác dụng chống u trên tế bào sarcoma 180 (Ukai et al., 1992).

6. Tác dụng trên hàm lượng calci trong bào tương

Tác dụng của polysaccharid (PS) được phân lập từ mộc nhĩ trắng trên nồng độ calci tự do trong bào tương của tế bào đơn nhân lách chuột đã được xác định dùng kỹ thuật Fura - 2, một chất chi thị huỳnh quang. Kết quả cho thấy, PS làm tăng nồng độ của calci tự do trong bào tương theo cách phụ thuộc liều và có tác dụng hiệp đồng với Con A. Tác dụng không xảy ra, nếu ngoài tế bào không có Ca2+ . Verapamil 10 ng/ml (một chất phong bế kênh Ca2+) ức chế tác dụng của PS làm tăng Ca24 tự do trong bào tương. Như vậy, PS làm tăng luồng vào của Ca2* từ ngoài vào trong tế bào (Cui etal., 1997).

Tính vị, công năng

Mộc nhĩ trắng vị ngọt, nhạt, tính bình, cỏ công năng bổ chung, dưỡng phế, tăng tiết nước bọt.

Ở Trung Ọuốc, về tính vị, các sách "Hiện đại thường dụng trung dược" và "Trung dược đại từ điển" đều ghi: mộc nhĩ trắng vị ngọt, nhạt, tính bình; nhưng sách "Ẩm phiến tân tham" và "Phúc kiến dược vật chí" ghi: vị ngọt, nhạt, tính lương. Mộc nhĩ trắng vào 3 kinh phế, vị và thận; có công năng tư âm nhuận phế, ích khí dưỡng vị, sinh tân nhuận táo [TDTH, 1993,1: 1631].

Công dụng

Mộc nhĩ trắng được dùng chữa suy nhược sau khi ốm, khô miệng, khô cổ, ho khan, đờm dãi có máu, táo bón. Còn chữa huyết áp cao, xơ cứng động mạch. Liều mỗi ngày 3 - lOg, sắc lấy nước, thêm đường rồi uống. Có thể ngâm nước cho nở hết cỡ, rồi xào với thịt, su hào, cà rốt, hành thay cho thức ăn. Loại mộc nhĩ vàng, còn gọi là kim nhĩ Tremelia mesenterica Retz cũng mọc trên cây dẻ có công dụng như mộc nhĩ trắng (bạch nhĩ).

Bài thuốc có mộc nhĩ trắng

Chữa suy nhược sau khi ốm: Mộc nhĩ trắng 6g, linh chi 6g, mộc nhĩ Auricularia auricula 15g. táo tàu 30g, gừng vài lát. Nấu chín ăn. Thường thêm 50 g thịt lợn nạc, nấu ăn trong ngày.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC