Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần M

Mùng Thơm

14:07 12/07/2017

Alocasia odora (Roxb.) C. Koch

Tên đồng nghĩa: Colocasia odora Brongn. Arum odorum Roxb.

Tên khác: Dọc mùng, ráy bạc hà, dã vu.

Họ: Ráy (Araceae).

Mô tả

Cây thảo nhỏ, cỏ thân rễ, sống nhiều năm, cao 0,5 - 1,5m. Lá mọc tụ tập thành túm dày ở ngọn thân, hình bầu dục - mũi mác, gốc hình tim, đầu nhọn, mép lượn sóng, hai mặt nhẵn, gần như cùng màu; cuống lá mập, có bẹ ôm thân.

Cụm hoa là một bông mo có phần ống hình trứng thuôn, phần phiến phía trên có màu lục hoặc vàng lục, hơi uốn cong, sớm rụng. Phần trục mang hoa cái ngắn 2 - 2,5 cm; phần không sinh sản dài hơn; tiếp theo là phần mang hoa đực dài 3 cm phần cuối trục hình nón hẹp, phình ở gốc, dài hơn phần mang hoa đực.

Quả mọng, hình trứng nhẵn.

Phân bố, sinh thái

Chi Alocasia (Schott) G.Don trên thế giới có tổng số 73 loài, Việt Nam có 6 loài. Loài mùng thơm trên cũng thường gọi là dọc mùng, hiện chưa rõ về nguồn gốc nhưng là cây trồng khá phổ biến làm rau ăn (cuống lá) ở Việt Nam cũng như một số quốc gia nhiệt đới Đông Nam Á khác.

Ở nước ta, cây được trồng ở hầu như tất cả các tỉnh, trừ vùng núi cao lạnh (trên 1.500 m). Mùng thơm là cây ưa ẩm, hơi chịu bóng và không chịu được ngập nước. Cây thường được trồng ở vườn gia đình, bờ ao và đôi khi cũng được trồng ở ruộng nhưng ở quanh làng có thề được che bóng một phần trong ngày. Đó là loại cây trồng lấy dọc (cuống lá) thường xuyên nên rất hiếm khi thấy có hoa quả. Nguồn cây giống để trồng là những nhánh con.

Đất trồng mùng thơm cần luôn ẩm. Cây giông là các nhánh con tách ra từ cây mẹ, đã cắt bỏ bớt lá. 

Cách trồng

Cuốc hố. cự ly 40 X 50 cm. Mỗi hố trồng 1 nhánh Phân bón lót và bón thúc chủ yếu bằng phân chuồng. Chăm sóc đơn giản, bao gồm: thường xuyên tưới nước, vun gốc.

Thời vụ trồng từ mùa xuân đến mùa hè. Cây trồng cho thu hoạch sau ba tháng và kéo dài trong 2 năm mới phải trồng lại.

Bộ phận dùng

Lá, củ và thân.

Thành phần hoá học

Sự có mặt của acid oxalic là dấu hiệu đặc trưng của tất cả các loài thuộc Chi Alocasia. Trong cây thường tồn tại dưới dạng calci oxalat. Ngoài ra còn có đường, saponin (Mayo et al., 1997) procyanidin, c - glycosylflavon (Williams et al., 1981) anthocyanidin - 3 - rutinosid, flovonol quercetin, kaempferol... và flavon - c - glycosid (Williams et al., 1981) đã được tìm thấy trong tất cả các loài thuộc chi này.

Theo các tác giả Trung Quốc [Trung Quốc đại từ điển, 1996, vol.Ill, p. 281 ] trong mùng thơm có chứa các chất: triglochin, izotriglochin. Ngoài ra còn chứa men p - glucosidase và campesterol (CA, 1979, 90, 363 lOy, CA, 1977, 87, 148660g, CA, 1988, 109, 188889t, CA 1990 93, 130339y.).

Khi nghiên cứu trên thân cây mùng thơm, Lê Việt Dũng (2006) đã chiết lần lượt với xăng nhẹ, chloroform, methanol và nước.

Dịch chiết methanol đem chạy trên sắc ký cột yà sau đó trên SKLCA điều chế với hỗn hợp dung môi acetonitril nước (1=3) thu được 10 hợp chất nhiên trong đó có 5 chất thuộc nhóm lignan, 3 chất thuộc nhóm c - glycosylílavonoid, I chất thuộc nhóm alkaloid và 1 steroid. 

Tác dụng dược lý

Tác dụng độc thần kinh

 Rễ củ cây mùng thơm có chứa sapotoxin độc với thần kinh. Mùng thơm có tính chất và hình thái rất giống với cây ráy Alocasia macrorrhira. Nếu ăn sống rễ củ sẽ bị tê đau ở vùng miệng và họng (Chan et al., 1995).

Tính vị, công năng

Rễ củ mùng thơm vị nhạt, tính hàn, có độc, ăn vào gây ngứa, đau, tê ở vùng miệng và cổ họng; có công năng giải nhiệt, công độc. khu phong. 

Ở Trung Quốc. sách "Tân hoa bản thảo cương yếu" và "Toàn quốc trung thảo dược hội biên" đều ghi: thân rễ mùng thơm vị hơi cay, chát, tính hàn. có độc; có công năng thanh nhiệt, giải nhiệt, tiêu thũng [TDTH, 1997,111:281].

Công dụng

Củ mùng thơm, mài ra, bỏ vào miệng cho người bị kinh phong đờm rãi, nhất là trẻ em, sẽ làm giảm đờm (theo lương y Nguyễn Trung Hòa, Việt Nam). Để chữa ngứa, tấy do lá han (Dendrocnide urentissima Chew.), lấy củ, cắt ra. trà xát nhẹ vào chỗ ngứa. Còn dùng làm thuốc chữa mụn nhọt, ghẻ, sưng bàn tay, bàn chân. Cuống lá mùng thơm có thể được dùng làm rau thái ra. ăn sống, hoặc nấu với canh chua.

Ở Trung Quốc, thân rễ mùng thơm được dùng chữa cảm cúm. sốt rét (ở Ọuảng Tây), thương hàn. phổi kết hạch, viêm khớp, phong thắp. Ngày dùng 10 - 20g hoặc 30 - 60g tươi, sắc thật kỹ rồi uống. Cần sấc kỹ để giảm độc. Dùng ngoài, chữa trùng xà giảo thương (rắn và côn trùng đốt cắn), sang loét thũng độc; lấy thân rễ tươi, rửa sạch, giã nát. đẳp lên chỗ tồn thương và đau; không đắp lên chỗ da lành vì độc.

Bài thuốc có mùng thơm

Cao dán chữa mụn nhọt: Lấy thân rễ mùng thơm tươi (có thể dùng củ ráy cũng được) nặng khoảng 80 - lOOg, nghệ củ tươi khoảng 60g. Gọt sạch vỏ thân rễ mùng thơm và cạo sạch vỏ nghệ. Gĩa nát thật kỹ mùng thơm với nghệ. Thêm dầu vừng vào, nấu thật nhừ. Sau đó, thêm dầu thông và sáp ong vào vừa đủ, khuấy cho thật đều. Để nguội. Phết cao lên giấy bàn. Khi dùng chi cần dán cao vào nơi mụn nhọt. Nếu nhọt mới mưng đò thường tan. Nếu đã có mủ, cao có tác dụng hút mủ.

Ghi chú: Mùng thơm có độc, uống dịch sắc chưa kỹ hoặc liều cao có thể bị ngộ độc, biểu hiện bằng lưỡi, miệng tê, sưng, đau, ngộ độc thần kinh. Để giải độc, có thể dùng giấm gạo hoặc gừng tươi ngậm rồi nhổ đi. Thân rễ mùng thơm khi tiếp xúc với da, dễ xuất hiện phản ứng ngứa, tê, sưng tấy, đau.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC