Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần N

Nhân sâm

10:05 11/05/2017

Nhân Sâm còn có tên là viên sâm, dã nhân sâm.

Tên khoa học Panax ginseng C. A. Mey. {P. schifiseng Nees.)

Thuộc họ Ngũ gia bì Arơliáceae.

Tên nhân sâm do vị thuốc giống hình người. Tên Panax do chữ Hy Lạp pan là tất cả, acos là chữa được, có ý nói vị thuốc chữa được mọi bệnh, ginseng và schinseng là phiên âm chữ nhân sâm. Mặc dầu vị nhân sâm hiện nay ta vẫn còn phải nhập nhưng công dụng quá phổ biến, nhiều nguòi lầm với một số cây ta có.

Liên Xô cũ, Trung Quốc, Triều Tiên đều đã giúp ta hạt giống và mầm để thí nghiệm trồng thử cho nên chúng tôi giới thiệu ỏ đây để tránh nhầm lẫn và để cố gắng đặt vấn đề di thực được nhân sâm. Nhân sâm (Radỉx ginseng hay Radix gihseng sylvestris) là rễ chế biến rồi phơi hay sấy khô của cây nhân sâm trồng hoặc mọc hoang.

Có tác giả xác định hai loại nhân sâm như sau:

1. Nhân sâm mọc hoang.: Panax ginseng c. A. Mey. forma sylvestre Chao et Shih.

2. Nhân sâm trồng: Panax ginseng c. A. Mey. forma sativum. Chao et Shih.

A. Mô tả cây nhân sâm

Cây nhân sâm là một cây sống lâu năm, cao chừng 0,6m. Rễ mẫm thành củ to. Lá mọc vòng, có cuống dài, lá kép gồm nhiều lá chét mọc thành hình chân vịt. Nếu cây mới được một năm (nghĩa là sau khi gieo được 2 năm) thì cây chỉ có 1 lá với 3 lá chét, nếu cây nhân sâm được 2 năm cũng chỉ có 1 lá với 5 lá chét. Cầy nhân sâm 3 năm có 2 lá kép, cây nhân sâm 4 năm có 3 lá kép, cây nhân sâm 5 năm trờ lên có 4 đến 5 lá kép, tất cả đều có 5 lá chét (đặc biệt có thể có 6 lá chét) hình trứng, mép lá chét có răng cưa sâu.

Bắt đầu tót năm thứ ba trờ đi, cây nhân sâm mới cho hoa, kết quả. Hoa xuất hiện vào mùa hạ. Cụm hoa hình tán mọc ở đầu cành, hoa màu xaiứrnhạt, 5 cánh hoa, 5 nhị, bầu hạ 2 núm. Quả mọng hơi dẹt to bằng hạt đậu xanh, khi chín có màu đò, trong chứa 2 hạt. Hạt cây sâm năm thứ 3 chưa tốt. Thường người ta bấm bỏ đi đợi cây được 4-5 năm mới để ra quả và lấy hạt làm giống

Nhân sâm và tác dụng chữa bệnh của nó

 B. Phân bổ, trồng hái và chê biến

Cây nhân sâm mọc hoang và được trổng ở Trung Quốc, Triều Tiên, vùng Viễn Đông của Liên Xô cũ, còn được trồng ở Nhật Bản, Mỹ, nhưng nổi tiếng vẫn là sâm Triều Tiên và Trung Quốc. Riêng hai tỉnh Liêu Ninh và Cát Lâm (miền Đông Bắc Trung Quốc) sản lượng hàng năm lên tới 750.000kg. Tại Triều Tiên, Khai Thành là nơi trồng nhiều nhân sâm nhất, đã có trên 200 năm kinh nghiệm. Việt Nam tuy đã có thí nghiệm trổng bằng hạt và mầm do các nước bạn Triều Tiên, Liên Xô cũ và Trung Quốc giúp nhưng chưa thành công.

Sau đây chúng tôi giới thiệu sơ lược cách trồng và chế biến nhân sâm của Khai Thành (Triều Tiên).

1. Chọn hạt giống: Chọn ở những cây sâm mọc khoẻ, tốt đã mọc được 4 hoặc 5 năm (vùng Đông Bắc Trung Quốc chọn những cây đã được 5-6 năm) vì cây 3 năm chưa đủ khoẻ cây, 6 năm vỏ hạt cứng quá khó nảy mầm.

2. Gieo hạt Hạt thu hoạch tháng 8, cuối tháng 10-11 gieo hạt, tưới nước và để nằm dưới đất qua mùa đông có tuyết. Cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm sau, hạt nảy mầm. Tỷ lệ nảy mầm đạt tới 47%. Trong thòi gian cây lớn cẩn tưới đều giữ ẩm thích hợp.

3. Đánh cây con đi trồng Có thể đánh vào mùa thu (cuối tháng 10 đến trang tuần tháng 11) hoặc vào mùa xuân (đầu tháng 3 đến đẩu tháng 4) ngay trong năm đầu sau khi cây nảy mầm. Đánh đi trồng vào mùa xuân thì tốt hơn. Trong thời gian trổng cần che nắng cho nhân sâm, nên cho ánh nắng buổi sáng chiếu vào nhiều tránh nắng trưa và chiều. Phân bón dùng phân xanh và khô dầu, không bón thúc bằng phân bắc và nước tiểu.

4. Thu hoạch Sau 6 năm, vào trung tuần tháng 9 và thượng tuần tháng 10 đào-củ, chú ý tránh làm rễ bị đứt, không phơi gió, phơi nắng để giữ nguyên độ ẩm trong sâm. Sau đó chia loại sâm tốt để chế hổng sâm, loại kém để chế bạch sâm.

5. Chế biến nhân sâm Trên thị trường có nhiều loại sâm do chế biến khách nhau, ở đây chỉ giới thiệu cách chế biến hai loại hổng sâm và bạch sâm của Triều Tiên.

a) Hồng sâm: Chọn những củ sâm to nhất, nặng ít nhất 37g, rủa sạch đất từng củ một bằng bàn chải nhỏ, rửa ở dưới nước, để nguyên cả rễ, kể cả rễ nhỏ, rửa như vậy sẽ đưọc củ sâm trắng ngà Cho vào nồi hấp ờ áp lực hơi nước cao 2 atmotphe từ 1 giò 20 phút đến 1 giờ 30 phút. Nhiệt độ hấp 80-90°C. Sau đó sấy khô ở nhiệt độ 60-70° c (6-7 giờ) hoặc ở 50- 60° (8-10 giờ) nên sấy khô hết sức mau. Sau khi sấy khô, dùng tay rút các rễ con để riêng gọi là tu sâm, củ sâm còn lại giống như hình người (nếu không giống thì sửa cho giống) phơi ra nắng từ 7 đến 15 ngày (tuỳ theo sâm to hay nhỏ) là được. Sau đó chia hổng sâm thành hai cấp: Cấp trời (màu đẹp, dáng đều đặn, giống người), còn lại cấp đất. Cuối cùng đóng gói từng cân ta (600g) một. Loại tốt nhất 15 củ nặng 600g loại kém nhất 60 củ=600g.

b) Bạch sâm: Vì sâm này khô và trắng. Những củ sâm không đủ tiêu chuẩn chế hồng sâm ửù đem chế bạch sâm. Trước hêt cắt bỏ rễ con, dùng dao tre cạo sạch vỏ mỏng, sau đó phơi nắng cho hơi khô, đem vào sủa thành hình người rồi lại phơi nắng cho khô hẳn. Thời gian phơi cả trước lẫn sau hết chừng 7 đến 15 ngày. Sau đó đóng gói như hổng sâm. Thường hồng sâm được đóng vào hòm gỗ, bạch sâm đóng vào hòm giấy. Gần đây, tại nhiều nước, nhân sâm đã được phát triển bằng nuôi cấy mô để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về nhân sâm.

C.Thành phần hoá học

Nhân sâm được nhiều người nghiên cứu từ lâu. Nhung kết quả còn chưa đáp ứng được đòi hỏi của các nhà khoa học. Sau đây là một số kết quả:

1. Trong nhân sâm có loại saponin sterolic. Hỗn hợp saponin có tên là panaxozit trước đây gọi là panaquilon hay panakilon.

2. Chất glucozit hoặc hỗn hợp glucoát mang tên là panaxin cũng chưa được nghiên cứu sâu. Trước đây gọi là gensenin cũng là một loại saponin chưa tinh khiết lắm.

3. Ngoài ra còn có một tí tinh dầu 0,055-0,250% làm cho nhân sâm có mùi đặc biệt, trong đó chủ yếu là chất panaxen C]5H24.

4. Các vitamin B, và B2, các mendiataza.

5. Tro chừng 3-7% trong đó có chừng 53% axit photphoric.

6. Các tạp chất khác gồm nhựa và chất béo tổng số chừng 1,5%. Các axit béo gồm hỗn hợp axit panmitic, stearic và linoleic. Hỗn hợp này mang tên axit panaxic.

7. Các chất khác gồm có phytosterin 0,029%- tinh bột chừng 20%, chất pectin 16-23% và đường 4%.

8. Mới đâý ngưcà ta lại thấy trong nhân sâm có hàm lượng germanium cao.

D. Tác dụng dược lý

Được nhiều người nghiên cứu và có rất nhiêu tài liệu nói đến. Sau đây chúng tôi chỉ tóm tắt một số kết quả:

1. Tác dụng trên hệ thần kinh: Từ xưa, tại Trung Quốc người ta đã biết thí nghiệm tác dụng làm giảm mệt của nhân sâm. Ví dụ trong Bdn thảo cương mục của Lý Thời Trân (thế kỷ thứ 16), có ghi cách thử nhân sâm như sau: “Cho 2 người cùng chạy, một người có ngậm miếng nhân sâm, một người không ngậm, sau khi chạy độ 3 đến 5 dặm người không ngậm nhân sâm sẽ thở mạnh còn người có ngậm nhân sâm vẫn thở như thường”.

Trong các năm 1949-1951 tại Liên Xô cũ, Abramôva có thí nghiệm theo phương pháp cho chuột nhắt ỉội nước thì thấy nhân sâm có tác dụng làm chuột đỡ mệt. - Năm 1947, Lazarev đã nghiên cứu và kết luận rằng nhân sâm có tác dụng hưng phấn thần kinh trung ương, đùng với liều điều trị có thể làm đỡ mệt, tăng hiệu suất công tác, so với thuổc phenamin thì tốt hơn. -

Năm 1955, Drake theo phương pháp của Zacuxov đã chứng minh liều điều trị của nhân sâm có khả nãng rút ngắn thời kỳ phản xạ tiềm phục của thần kinh và làm mau sự chuyển động của thần kinh. Nhưng liều cao quá có thể gây hiện tượng quá trấn tĩnh (Chu Nhan-Chu Kim Hoàng, Trung Hoa y học tạp chí, 12-1956).

2. Tác dụng trên huyết áp và tim

Các nhà nghiên cứu Liên Xô cũ: Burkrat và Xakxopov (1947) và Kixêlev (1948-1959) đã nghiên cứu nước sắc và cồn nhân sâm, kết luận rằng tác dụng của dung dịch nước và dung dịch rượu nhânsâm như sau: Kixêlev dùng dung dịch 5%, 10% và 20% nhân sâm tiêm vào tĩnh mạch thỏ và mèo thấy tác dụng hạ huyết áp, nồng độ càng cao tác dụng ức chế trên tim càng mạnh, nhưng nếu nổng độ thấp thì lại co bóp tim mạch và số lần bóp càng tăng, do đó ông đã kết luận rằng nhân sâm có hai hướng tác dụng ưên thần kinh thực vật: Liều nhò có tác dụng như thần kinh giao cảm, liều lớn có tác dụng như thần kinh phế vị (nerf vague).

3. Tác dụng trên hô hấp

Năm 1947 Burkrat và Xakxopov đã báo cáo dùng 0, 3-0,5ml dung dịch nhân sâm 20% tiêm vào tĩnh mạch mèo thấy nhân sâm hưng phẩn hô hấp. Một số nhà nghiên cứu Nhật Bản và Trung Quổc trước đó đã tiêm vào tĩnh mạch thỏ chất ginsenin thấy liều nhỏ làm tăng hô hấp, liều cao có tác dụng ngược lại, nếu tiêm axit panaxic hay chất panaxen cũng thấy tác dụng như vây. Tuy nhiên ở trên mới chỉ thấy tác dụng khi tiêm còn chưa thấy tài liệu nghiên cứu tác dụng của việc uống nhân sâm đối với hô hấp.

4. Tác dụng đối với chuyển hoá cơ bản.

Năm 1922 hai tác giả Nhật Bản: Hà Bộ Thắng Mã và Nại Đằng Hệ Bình đã nghiên cứu tác dụng của bột nhân sâm và chất tan trong cồn của nhân sâm (uống và tiêm) đối với bệnh huyết đường quá cao nhân tạo ưên thỏ, đều thấy có tác dụng rõ rệt làm hạ mức huyết đường xuống.

Năm 1954 và 1956 một số tác giả Trung Quốc cũng xác nhận trong Trung Hoa nội khoa tạp chí và Trung Hoa y học tạp chí tác dụng hạ huyết đưòng của nhân sâm. Trên lâm sàng người ta đã thấy (Khâu Thần Ba, 1955) rằng nếu dùng nhân sâm chung với insulin ứù có thể giảm bớt lượng insulin, thời gian hạ huyêt đường được kéo dài hơn và chữa được bệnh tiểu đường.

5. Tác dụng đối với sự sinh trưởng và phát dục của động vật (máu lạnh ìxoặc máu nóng, côn trùng) (Tho uống hoặc tiêm thuốc chế bằng nhân sâm hoặc các chất lấy từ nhân sâm trên một số động vật so sánh với động vật không dùng nhân sâm, thấy ttọng lượng con vật tăng ỉên, thời gian giao cấu của con vật kéo dài, hiện tượng, tình dục xuất hiện rõ rệt.

6. Tác dụng đôi với sức chống đỡ bệnh tật

Những thí nghiệm của Daugolnikov (1950- 1952), Brekhman và Phruentov (1954-1957) và Abramov (1953) cho biết nhân sâm có tác dụng tăng sức đề kháng cùa động vật đối vói tật bệnh.

7. Độc tính của nhân sâm

Kixêlev đã tiêm vào dưói da chuột nhắt lml dung dịch nhân sâm 20% thấy sau 10-12 giờ chuột chết với trạng thái “mất sắc”. Nhưng cho uống thì độc tính rất ít.

E. Công đụng và liều dùng

Nhân sâm là một vị thuốc cổ truyền trong đông y. Các sách cổ thường ghi nhân sâm bổ năm tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận) yêu tinh thần, định hồn phách, làm khòi sợ hãi, trừ tà khí, sáng mắt, uống lâu nhẹ mình, tăng tuổi thọ, chữa các chứng đau ruột, dạ dày, nôn mửa. Cách dùng trong nhân dân như sau:

1. Sâm thái mỏng, cho vào miệng ngậm và nhấm từng ít một, nuốt nước và cả bã.

2. Thái mỏng, cho vào ẩm hay chén sứ.

Thêm một tí nước đậy nắp. Đun cách thuỷ, uống nước. Sau đó lại thèm nước và đun cách thuỷ tiếp tục uống, làm như vậy cho đến khi hết mùi vị mới thôi. Ngày dùng 2-6g. Theo tài liệu cổ, nhân sâm vị ngọt, hơi đấng, tính ôn (lá có vị đắng, hơi ngọt), vào 2 kinh tỳ và phế. Có tác dụng đại bổ nguyên khí, ích huyết sinh tân, định thần, ích trí.

Dùng chữa phế hư sinh ho suyễn, tỳ hư sinh tiết tả, vị hư sinh nôn mửa, bệnh lâu ngày khí hu, sợ hãi, tiêu khát. Những người bệnh có thực tà không dùng được. Sau đó do các công tình nghiên cứu về nhân sâm đặc biệt của Liên Xô cũ, Trung Quốc, nhân sâm được tây y công nhận và sử dụng coi như thuốc tây.

Dược thư Liên Xô xuất bản lần thứ 9 năm 1961 công nhận nhân sâm là vị thuốc chính thức trong y học Liên Xô. Có thể dùng dưói dạng thuốc sắc 5 hay 10% với liều 15-30ml một lần, ngày dùng 3 lần, hoặc dưới dạng cồn nhân sâm với liều 15 giọt một lần, ngày uống 3 lần. Vài đơn thuốc có nhân sâm trong đông y :

1. Độc sâm thang (đơn thuốc có một vị nhân sâm) chữa cơ thể quá suy nhược sau khi mất máu Nhân sâm 40g. Nước 400ml (2 bát) sắc còn 200ml (1 bát), cho uống từng ít một, không kể thòi gian. Uống xong cần nằm yên.

2. Sâm phụ thang chữa những trường hợp mạch suy, kiệt, mồ hôi ra nhiều, chân tay lạnh: Nhân sâm 40g (có thể 20g), chế phụ tử 20g (có thể dùng 10g), sinh khương 3 nhát, táo đen 3 quả, nước 3 bát (600rrũ) sắc còn 200ml (1 bát) chia làm nhiều lần uống trong ngày.

Những vị thuốc dùng thay nhăn sâm Trên thị trường hiện nay có nhiều vị dùng lầm vói tên nhân sâm. Ngoài các vị được giới thiệu kỹ ở sau như thổ cao ly sâm, bố chính sâm v.v... còn có vị thái tử sâm hay hài nhi sâm được vùng Giang Tô Trung Quốc dùng thay nhân sâm và cũng có khi đưa bán ở nước ta. Đó là rễ cây Pseudosteỉlaria raphonorrhiza (Hemsl). Pax thuộc họ cẩm chướng Caryophyllaceae. Cây này là một loại cây cỏ nhỏ cao 7-15cm, chưa thấy ở nước ta. Thành phần hoá học và tác dụng được lý chưa được nghiên cứu. Có người mới phát hiện trong thái tử sâm có fructoza. Dùng làm thuốc bổ, chữa trẻ con đổ mồ hôi trộm, kém ăn, với liều 8-12g một ngày 

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC