Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần S

Sến

10:05 12/05/2017

Sến có tên đồng nghĩa :Bassia pasquieri Lecomte

Tên khác :Sến dưa, sến mật.

Tên nước ngoài :Illipé, bassia (Pháp).

Họ :Hổng xiêm (Sapotaceae).

Mô tả

Cây gồ to, cao đến 30 m, vỏ thân màu nâu sẫm. Canh non có lông màu gỉ sắt, sau nhẵn. Lá mọc so le, hình trứng ngược hoặc ngọn giáo, dài 6 - 16 cm, rộng 2 - 6 cm, gốc thuôn, dầu tù có mũi nhọn, phiến dai, hai mặt nhẵn, mép nguyên, gân chính rõ, gàn phụ mờ; cuống lá dài, có rãnh ở mặt trên; lá kèm sớm rụng.

Cụm hoa mọc ở kẽ những lá gần ngọn, có cuống dài mảnh và có lông; hoa màu trắng vàng; đài nhỏ có lông; tràng có 6 - 11 cánh thuôn, nhẵn; nhị 12 - 22, bầu ít lông, 6 - 8 ô. Quả hình trứng hay gần hình cầu, có đài tồn tại và mũi nhọn ngắn; hạt hình trứng, có sẹo bên. Mùa hoa: tháng 1-3; mùa quả: tháng 10 -12. Sến - Madhuca pasquieri (Dubard) Lam.

Phân bố, sinh thái

Chi Madhuca Gmel. có khoảng 85 loài, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới châu Á. Ở Indonesia có 27 loài, Malaysia 25 loài, Philippin 9 loài, Thái Lan 8 loài, Srilanca 5 loài, Mianma 3 loài, khu vực Đông Dương 13 loài, trong đó Việt Nam có 9 loài...(A. Aubréville, 1993; Fl. C. L et VN-, No 3: 22 - 32), hai loài dược coi là đặc hữu: Sến núi cao (M. alpina (Chev.) Chev.) ở các tỉnh phía nam và sến mật (M. pasquieri (Dubard) H. J. Lam) chỉ có ở các tỉnh phía bắc (Vu Van Dung et al, 1996, Vietnam forest trees, 665 - 668).

Sến phân bố rải rác ở các tỉnh miền núi như Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoẩ, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai và Bắc Giang. Cây thường mọc trong các quần hệ rừng kín thưòng xanh ẩm, cùng với một số loài cây gỗ khác như Vatica odorata, Castanopsis indica, Gironniera subaequalis, Paralbizzia túrgida, Cinnamomum obtusifolium... tạo thành tầng lập tán hoặc tầng nhô của rừng. Độ cao phân bố từ 200 đến 1000 m. Cây thường mọc nơi có tầng đất thịt dày; lúc nhỏ là cây chịu bóng sau ưở thành cây ưa sáng. Sến thuộc loại cây gồ sinh trưởng chậm, chỉ có hoa quả nhiều khi vươn tới tầng tán rừng, trực tiếp với ánh sáng. Cây tái sinh tự nhiên tư hạt tốt, song cây mầm thường bị con sóc và môt vài loài gậm nhấm khác ăn (Vu Van Dung et al., 1996) Ở Việt Nam, gỗ sến được coi là 1 trong "tứ thiết" Gô có màu đỏ hồng, rất cứng và nặng, không bị mối mọt ăn, thường được dùng để xây dựng các công trình lâu bền. Do có giá tri sử dụng cao, nên gỗ sến bị khai thác nhiều đến mức cạn kiệt.

Hiện nay, cây đang được ngành lâm nghiệp khuyến cáo để bảo vệ ở Việt Nam.

Bộ phận dùng

Rễ, lá.

Tác dụng dược lý

Năm 1992, tác giả Đảo Xuân Vinh trong luận án Phó tiến sĩ khoa học y dược đã nghiên cứu tác dụng đối với vết bỏng của maduxin, cao chiết từ sến, với những nội dung sau:

- Nghiên cứu diễn biến của quần thể vi khuẩn trên vết thương bỏng được điều trị bằng maduxin.

- Đánh giá tác dụng của maduxin đối với quần thể vi khuẩn trên vết bỏng thực nghiêm bằng nhiệt ở thỏ và gây nhiễm khuẩn Pseudomonas aeruginosa.

- Nghiên cứu sự biến đổi hình thái và hóa mô vết bỏng thực nghiệm nhiễm khuẩn được điều trị băng mađuxin.

- Thắm dò tác động của gia tốc ly tâm đến quân the vi khuẩn trên vết bỏng thực nghiệm được điêu tn bang maduxin. Qua kết quả nghiên cứu, tác giả đã đi đến những ket luận sau:

1 Nghiên cứu vi khuẩn học tại vết bỏng trung bì thực nghiệm, diện tích bỏng dưói 10% diện tích cơ thể thỏ thấy có 5 loài vi khuẩn trong đó Staphylococcus epỉdermidis chiếm tỷ lệ cao nhất (91,48%), sau đó là Pseudomonas aeruginosa (47,6%), Staphylococcus aureus (41,2%), Bacillus subtilis (22,05%), thấp nhất là Escherichia coli (13,1%).

2. Tại vết bỏng thực nghiệm được dùng thuốc maduxin, không thấy có sự thay đổi về chủng loại vi khuẩn, nhưng số lượng vi khuẩn/cm2 vết bỏng giảm rõ rệt so vói nhóm chứng. Số lượng 2 loài vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa và Staphylococcus aureus à vết bỏng dùng thuốc maduxin thấp hơn nhóm đối chứng. Thời gian tồn tại của 2 loài vi khuẩn này ở vết bỏng được điều trị bằng maduxin ngắn hơn so với nhóm đối chứng.

3. Tại vết bỏng thực nghiệm gây nhiễm khuẩn Pseudomonas aeruginosa, không thấy có sự khác biệt về thành phần loài vi khuẩn, nhưng tỷ lệ và số lượng Pseudomonas aeruginosa cao hơn so với những vết bỏng , không gây nhiễm khuẩn. Dùng thuốc maduxin điều trị thấy tỷ lệ và số lượng 2 loài vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa và Staphylococcus aureus giảm nhanh, thời gian sạch 2 loài vi khuẩn này sớm hơn so với nhóm đối chứng.

4. Tại vết bỏng thực nghiệm được dùng thuốc maduxin, sự biến đổi về hình thái đại thể, vi thể và hóa mô diễn ra theo hướng tốt so vói nhóm đối chứng ở cả 2 loại vết bỏng gây nhiễm và không gây nhiễm Pseudomonas aeruginosa như, viêm phù nề ít, dịch xuất tiết giảm, ít mô hoại tử , vết bỏng sạch nhanh, biểu mô hóa xuất hiện sốm, mạch máu tân sinh nhiều, hàm lượng mucopolysaccarid hồi phục nhanh, thời gian khỏi, liền sẹo sớm, sẹo bóng mịn.

5- Trên vết bỏng thực nghiệm, động vật chịu tác động của gia tốc ly tâm thì quần thể vi khuẩn không thay đổi. Không thấy có sự khác biệt về tác dụng của maduxin đối với quần thể vi khuẩn trên vết bỏng ở động vật chịu tác động của gia tốc ly tâm và trong điều kiện bình thường. Từ các kết luận trên, maduxin có tác dụng ức chế một số vi khuẩn thường xuất hiện ở vết bỏng và có tác dụng giúp vết bỏng chóng lành.

Công dụng

Về mặt y học, theo kinh nghiệm dân gian, lá sến được dùng làm thuốc chữa bỏng rất công hiệu. Dạng dùng thông thường trong nhân dân là nưóc sắc đặc dùng để đắp. Dựa vào kinh nghiệm đó, Viện Quân y 103 đã điều chế lá sến dưới dạng cao đặc dễ dùng. Cách làm cụ thể như sau: Lấy 1 kg lá, băm nhỏ, cho vào nồi nhôm (không dùng nồi tôn hoặc sắt) đổ nước cho ngập dược liệu. Đun sôi trong 1-2 giờ (chú ý mức nước luôn sâm sấp dược liệu). Gạn lấy nước thứ nhất. Thêm nước, đun sôi tiếp để lấy nước thứ hai. Dồn hai nước sắc lại, lọc kỹ, rồi cô nhỏ lửa đến khi thành cao đặc.

Cao có màu nâu đen, mùi thơm, vị chát, không độc. Khi bị bỏng, lấy tăm bông sạch thấm vào cao, bôi lên vết thương. Mỗi ngày làm một lần. Thuốc khô nhanh, tạo thành một màng dai và chắc, che kín vết thương, chống nhiễm khuẩn, không có mùi hôi, không gây xót, làm giảm đau nhức và đặc biệt không dính chặt vào vết thương khi thay thuốc. Nếu bị bỏng nhẹ, chỉ bôi vài lần là khỏi. Người bị bỏng khi dùng cao lá sến thấy dễ chịu, không phiền phức.

Cao lá sến còn được nghiên cứu thay thế băng gạc để bảo vệ vết khâu sau khi mổ. Ưu điểm của cao là diệt khuẩn, làm vết thương mau lành và tiết kiệm bông băng. Dầu hạt sến cũng được dùng để bôi sẹo sau khi lành vết bỏng. Cả cao lá và dầu hạt đều không gây tác dụng phụ.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC