Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần X

Xương Khô

15:05 19/05/2017

Euphorbia tirucalli L.

Tên khác: Cành giao, san hô xanh.

Tên nước ngoài: Indian tree - spurge, milk - hedge, milk bush, finger tree (Anh); liane sans feuilles, euphorbe de Từucall (Pháp).

Họ: Thầu dầu (Euphorbiaceae).

Mô tả

Cây nhỡ, có thể cao 5 - 6m. Thân mập, phân nhiều cành gần như mọc vòng, hình trụ, màu lục. Các cành con có thể có lá. Lá nhỏ hẹp, rụng sớm, dài 12 - 16mm, rộng 2 mm.

Cụm hoa có tổng bao nhỏ, hình bầu dục; nhị nhiều.

Quả nang ít lông, có 3 mảnh lồi; hạt hình trứng, nhẵn.

Toàn cây có nhựa mủ trắng.

Phân bố, sinh thái

Xương khô có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Phi và hiện nay được trồng ở khắp các vùng nhiệt đới khác. Ở khu vực Đông Nam Á, xương khô có ở Indonesia, Philippin, Malaysia, Thái Lan, Lào, Campuchia. Ở Việt Nam, xương khô cũng được trồng làm cảnh ở khắp nơi. Ớ một số vùng đồi các tỉnh miền Trung, hay ở núi đá vôi thấp thuộc tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa, còn thấy cây mọc trong trạng thái hoang dại, có thể do trồng trọt trước đây.

Xương khó là cây đặc biệt ưa sáng, chịu được nắng nóng và khô hạn. Cây có thể sống được trên nhiều loại đất, kể cả đất cát khô ven biển hay ở vùng đất bán hoang mạc cằn cỗi của Ninh Thuận. Xương khô ra hoa quả hàng năm, tuy nhiên hạt không đóng vai trò quan trọng trong việc nhân giống. Cây có khả năng tái sinh dinh dưỡng khoẻ. Từ một mẩu thân hoặc cành nếu được tiếp xúc với đất đều chóng mọc rễ và phát triển thành cây xương khô mới.

Bộ phận dùng

Phần trên mặt đất và nhựa cây.

Thành phần hóa học

Xương khô chứa các euphorbin A và F (CA 113: 74.720 h), cyclotứucanenol (24p - methyl - 9P - 19 - cycloanost - 20 - en - 3p - ol) (CA 111: 74.738 d).

Vỏ thân chứa cycloeucalenol và Y - taraxasteryl acetat (CA 112: 136.009 y).

Vỏ thân khô và tươi còn có euphorginol (taraxer - 14 - 6ct - ol; CA 111: 112.295 s) va glut - 5 - en - 3p - ol và cycloart - 23 - en - 3p - 25 - diol (CA 108: 109.569 s).

Nhựa mủ cây chứa các diterpen từucalicin (CA 110: 170.225 j), 3, 7, 12 - tri - o - acetyl - 8 - isovaleryl - ingol (CA 114: 78.581 g), các chất diterpen ester là dẫn chất của các alcol ingenol, phorbol và resiniferonol, chất triterpen cycloeuphordenol (4a, 14a, 24ß - trimethyl - 9ß: 19 - cyclocholest - 20 - en - 3ß - ol (CA 109: 187.270 x).

Tác dụng dược lý

Cao ethanol của cành xương khô có tác dụng ức chế Bacillus subtilis và Staphylococcus aureus in vitro. Cao ethanol của lá, thân cây non và nhựa mủ có tác dụng giảm đau, ức chế hệ thần kinh trung ương và chống co giật trên động vật thí nghiệm. Cao xương khô có tác dụng làm tàng sự hoạt hóa các hệ gen tiềm tàng của vừus Epstein - Barr (EBV) trong những nguyên bào lymphô mang EBV và cả trên sự biến đổi tế bào lymphô người gây bởi EBV. Đất và nước lấy ở xung quanh cây cũng có tác dụng làm tăng sự hoạt hóa này và gây nguy hiểm cho người. Nhựa mủ xương khô chứa những chất kích thích và đồng gây ung thư. Đó là những diterpen ester dẫn chất của các alcol ingenol, phorbol và resiniferonol.

Công dụng

Ở Việt Nam, người ta chi trồng cây xương khô làm cảnh và làm hàng rào vì có nhựa độc. Một số người dùng xương khô chế thuốc ngậm chữa răng đau như sau: Lấy chừng 50g cành xương khô, rửa sạch, thái nhỏ ngâm ngay trong 100ml cồn 90°. Khi dùng lấy một thìa cà phê (5 ml) dung dịch pha vào một chén nước, ngậm một lúc, rồi nhổ đi. Ngày ngậm 3-4 lần.

Trong y học dân gian một số nước Đông Nam Á, thuốc đắp từ cành hoặc vỏ xương khô được dùng để trị gãy xương. Ở Malaysia, rễ hoặc cành cây giã đắp trị loét mũi, trĩ và sưng tấy. Rễ nạo nhỏ, trộn với dầu dừa, uống tri đau dạ dày. Cao chiết từ cây có tác dụng kháng sinh. Xương khô cũng được dùng làm thuốc bả cá. Ở Indonesia, nhựa mủ xương khô được phết lên chân tay bị gẫy để làm chất đỡ khi khô cứng lại. Ở Ân Độ, nhựa mủ đắp tại chỗ lại trị hột cơm, mụn cóc, thấp khớp, đau dây thần kinh, đau răng. Còn dùng trị ho, hen, đau tai, với tác dụng tẩy ở liều nhỏ và là chất kích thích và gây nôn ở liều lớn. Nước sắc cành non và rễ được dùng trị đau bụng và đau dạ dày. Tro xương khô là chất ăn da được dùng để làm vỡ áp xe.

Ở Madagascar, nhựa mủ cây xương khô gây tác dụng độc khi dùng quá liều, được áp dụng để gây nôn và làm thuốc bả cá. Ở Tây Phi, nhựa mủ bôi cũng trị hột cơm, mụn cóc, thấp khớp và đau dây thần kinh.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC