Vị thuốc vần B
Bạch Đàn Chanh
Bạch Đàn Chanh có Tên đồng nghĩa: Eucalyptus citrỉodora Hook.f.
Tên nước ngoài: Lemon - scented eucalypt, citron scented gum (Anh).
Họ: Sim (Myrtaceae).
Mô Tả
Cây gỗ luôn xanh, cao 6 - 10 m hay hơn. vỏ mỏng, mềm, thường nứt nẻ, bong thành từng mảng màu lục xám. Cành có nhiều lông tơ sau nhẵn. Lá hình ngọn giáo hoặc mác thuôn, hơi cong, gốc tròn, đầu thuôn nhọn, hai mặt nhẵn, mặt trên màu lục bóng, gân phụ rất sít nhau men theo mép lá thành gò mảnh; lá non mọc đối (4-5 đôi lá đầu), lá già mọc so le, cuống lá dài, phiến lá soi lên thấy rõ những điểm trong, đó là những túi tinh dầu, do đó khi vò lá thấy có mùi thơm của chanh.
Cụm hoa mọc ở đầu cành thành ngù hoặc xim tán; hoa màu trắng vàng, nụ hoa hình bầu dục; nhị rất nhiều, bao phấn hình bầu dục ngược.
Quả nang, hình trứng cụt, bao bọc toàn bộ hoặc một phần bởi ống đài, mở ở đỉnh; hạt nhỏ, nhiều, màu nâu nhạt.
Mùa hoa quả: tháng 6-8.
Bạch đàn chanh và tác dụng chữa bệnh của nó
Phân bố, sinh thái
Phân bố, sinh thái
Eucalyptus L’ Hér. là một chi lớn có đến 800 loài trên thế giới, gồm phần lớn là cây thân gỗ, thưòng xanh và có chứa tinh dầu. ít loài là cây bụi (Boland, 1993). Chúng có nguồn gốc và tập trung đa dạng cao ở châu Úc, lan sang cả New Guinea, Tasmania, Indonesia, Philippin, Malaysia và một vài đảo khác lân cận. Nhìn chung, các loài thuộc chi Eucalyptus L’ Hér. là tổ thành quan trọng, tạo nên điện mạo điển hình trong một số kiểu rừng thưa của Australia.
Do ý nghĩa kinh tế của nó, nhiều loài bạch đàn của Australia đã được du nhập sang nhiều nước nhiệt đới, á nhiệt đới ở châu Á và châu Phi, một vài loài còn được trồng cả ỏ vùng ôn đới ấm của châu Âu.
Ở Việt Nam, từ năm 1904, Brochet đã phát hiện thấy bạch đàn ở Cốc Lếu (Lào Cai) (Hoàng Hoè, 1996). Sau đó, người Pháp bắt đầu đưa một số giống bạch đàn vào trồng ờ nước ta. Vài chục năm trở lại đây, ngành lâm nghiệp tiếp tục nhập thêm nhiều giống bạch đàn nữa. Hiện đã có tới 20 loài nguyên chủng và loài lai của chi Eucalyptus được nhâp trồng ở Việt Nam. Trong số những loài được coi là có giá trị kinh tế và đang được trồng phổ biến, có loài bạch đàn chanh. Bạch đàn chanh là loài cây gỗ mọc nhanh.
Qua thực tế trồng ở Việt Nam, cây thích nghi vói biên độ sinh thái rộng, mọc tốt trên nhiều loại đất, nên đã được trồng rộng rãi ở cả đồng bằng, trung du và miền núi (dưói lOOOm). Cây ra hoa kết quả nhiều hàng năm. Tỷ lệ nảy mầm của hạt cao.
Gỗ được dùng làm trụ mỏ, nguyên liệu giấy và trong xây dựng. Lá để cất tinh dầu. Bạch đàn chanh có khả năng tái sinh cây chồi tốt sau khi chặt. Tuy nhiên đất trồng bạch đàn chanh nhanh chóng bị nghèo kiệt. Cần chú ý thâm canh.
Cách trồng
Các loài bạch đàn đều là những cây nhập nội, được trồng phổ biến ở nước ta, trừ những vùng cao, lạnh.
Cây không kén đất, đồi trọc, đầm lầy, ven đường đi, dọc kênh mương đều có thể trồng được bạch đàn. Bạch đàn được trồng bằng hạt. Vào mùa xuân hoặc đầu mùa thu, người ta gieo hạt trong vưòn ươm. Sang xuân, khi cây cao 70 - 100 cm thì đánh đi trồng. Có những cơ sở cung cấp cây con bằng cách gieo hạt trong bầu PE, có chứa sẵn đất trộn với một ít phân mục, hoặc mùn. Trước khi gieo, hạt được ngâm vào nước ấm (30 - 35° c, 2 lít nưốc thường pha với 1 lít nước sôi) qua 24 giờ, vớt ra, để ráo, cho tỷ lệ nảy mầm cao. Thời vụ trồng bạch đàn thường vào mùa xuân - trong tết trồng cây.
Khi trồng, đào hố với khoảng cách 1 X lm, kích thước hố tùy theo độ lớn của cây hoặc bầu, sau đó đặt cây, lấp đất vào gốc, lèn chặt và tưới nước. Nếu trồng bằng bầu, phải dùng dao, kéo xẻ rách bầu để sau này rễ dễ dàng ăn ra đất. Hầu như không sử dụng phân bón trong việc trồng bạch đàn. Cây sống rất khoẻ, lấn át hầu hết các loài cây khác trên mọi loại đất.
Đây là một trong những cây có tác đụng nhanh chóng phủ xanh đồi núi trọc, - cải thiện môi sinh, cung cấp gỗ chống lò và lá để chưng cất tinh dầu. Sau hòa bình lập lại, phong trào trổng bạch đàn đã diễn ra khá sôi động. Vào những năm 1960, người ta thấy rằng, đất ở những vùng trồng bạch đàn có xu hưóng trở nên nghèo kiệt, nên việc trồng bạch đàn có chững lại. Những năm gần đây, bạch đàn lại được phát triển trồng trở lại, nhất là ở vùng mỏ Quảng Ninh. Với khoảng cách như trên, sau 5-7 năm, cây có thể cho gỗ chống lò hoặc dùng trong xây dựng. Nếu để lâu hơn hoặc muốn có gỗ to, có thể tỉa thưa, giữ ở khoảng cách 2 X 2 m. Lá cây có thể thu hoạch hàng năm bằng cách tỉa cành.
Bộ phận dùng
Lá. khi vò có mùi thơm của tinh dầu sả lẫn mùi vỏ chanh tươi.
Thành phần hóa học
Lá bạch đàn chanh chứa tinh dầu. Theo Sugimoto Shigeko và cộng sự (1983), có hai typ hóa học: Typ citronelal: bạch đàn chanh ở Braxin, Trung Quốc. Typ cineol: bach đàn chanh ở Nhật Bản, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Mỹ. Lá bạch đàn chamh trồng ở nhiều nơi củaViệt Nam chứa trung bình 4,07 ± 0,75% tinh dầu (khảo sát trên 50 mẫu định lượng, Nguyễn Thi Thái Hằng, 1995). Cũng theo tác giả trên, tinh dầu bạch đàn chanh chứa a - thuyên vết, camphen vết, sabinen vết, p - pinen 0,35 %, a - phelandren 0,17%, a - terpinen vết, p.cymen 0,07%, 1,8 cineol 0,63%, Y - terpinen 0,06%, terpinolen 0,18%, linalol 0,12%, alo - ocimen 0,17%, isopulegol 12,50%, citronelal 72,53%, neo - isopulegol 1,63%, terpinen - 4 - ol 0,38%, oc - terpineol 0,14%, citronelol 5,61%, cuminal 0,20%, geraniol 0,55%, terpinyl acetat vết, citronelyl acetat 0,85%, geranyl acetat 0,09%, y - elemen 0,08%, p - caryophylen 1,16%, p - bergamoten 0,09%, p - humulen 0,07%, Y - eudesmol 0,13%, (E) - cadinol vết.
Chú thích:
Các loài trong chi Eucalyptus được phân loại theo một số nhóm hóa học chính như sau: Nhóm giàu 1,8 - cineol: E.globulus, E.australiana, E.dives, E.camaldulensis, E.exserta. Nhóm giàu citronelal: E.citriodora. Nhóm giàu piperiton: E.piperata.
Tác dụng dược lý
Trong thử nghiệm in vitro, tinh dầu bạch đàn chanh có tác dụng ức chế đối với một số vi khuẩn và vi nấm sau đây, theo thứ tự hoạt tính giảm dần: tụ cầu khuẩn vàng, Klebsiella, Enterobacter, trực khuẩn lao (giảm độc), phế cầu khuẩn, nấm Candida albicans, Shigella dysenteriae s.flexneri, Bacillus mycoides, trực khuẩn coli, Salmonella typhi. Nồng độ ức chế tối thiểu của tinh dầu bạch đàn chanh đối vói tụ cầu khuẩn vàng, Klebsiella và Enterobacter là 2mg/ml; và 8mg/ml đối với trực khuẩn coli và Salmonella typhi, và > 8mg/ml đối với Bacillus subtilis, Proteus mirabilis, Shigella Ịlexneri.
Tác dụng ức chế của tinh dầu bạch đàn trên vi khuẩn gram dương mạnh hơn tác dụng trên vi khuẩn gram âm. Tác dụng kháng khuẩn của tinh dầu bạch đàn không chỉ phụ thuộc vào hàm lượng cineol, mà có thể còn do tác dụng phối hợp của các thành phần khác có trong tinh dầu bạch đàn.
Tinh dầu bạch đàn chanh diệt amip lỵ vối nồng độ tối thiểu 1:640 in vít ro. Trong thử nghiệm trên ruột chuột lang cô lập, tinh dầu bạch đàn chanh có tác dụng chống co thắt cơ trơn ruột gây bởi hístamin và acetylcholin. Cao bạch đàn chanh cho thỏ bình thường uống gây hạ đường máu một cách nhất thời.
Tác dụng hạ dường máu biểu lộ rõ rệt hơn ở thỏ đã gây hạ đưòng máu thực nghiệm bằng aloxan, nhưng không làm cho đường máu trở về trị số bình thường. Cho thỏ uống cao bạch đàn chanh trước khi thực hiện nghiệm pháp dung nạp glucose, đã làm tăng khả năng dung nạp glucose của động vật thí nghiệm, và tác dụng này được quy cho sự có mặt của myrtilin trong cao bạch đàn chanh.
Trên chó có những vết loét nặng, tinh dầu bạch đàn chanh phối hợp với một số tinh dầu khác đã có tác dụng điều tậ tốt, làm phục hồi sức khoẻ. Thuốc nhỏ mũi Rinaseptol gồm có dầu thảo mộc và 5% hỗn hợp một số tinh dầu trong có tinh dầu bạch đàn chanh, đã được thử lâm sàng và thấy thuốc có tác dụng điều trị tốt đối với bênh nhân viêm mũi cấp tính và mạn tính.
Công dụng
Tinh đầu bạch đàn chanh có mùi thơm dễ chịu. Thưòng trộn một lượng nhỏ tinh dầu bạch đàn chanh vào những thuốc diệt khuẩn và thuốc tẩy uế được chế từ các loài bạch đàn khác, làm cho thuốc có mùi dễ chịu. Tinh dầu bạch đàn được đùng tại chỗ làm thuốc sát khuẩn, đặc biệt trong điều trị các bệnh nhiễm khuẩn dường hô hấp trên và trong một số bệnh ngoài da. Trộn lẫn vói một lượng tương đương dầu ô liu, nó được dùng làm thuốc gây sung huyết da để điều trị thấp khớp.
Đồng thời, cũng dùng tinh dầu bạch đàn dưới dạng thuốc mỡ để trị bỏng. Tinh dầu bạch đàn chanh được dùng bên trong, thường phối hợp với một số tinh dầu khác, làm thuốc gây long đờm trong trưòng hợp viêm phế quản mạn tính và hen. Dạng dùng thông thường là xông hoặc hít; cho vài giọt tinh dầu bạch đàn chanh cùng với menthol, tinh dầu thông và cồn thuốc kép benzoin vào nước sôi và hít hơi nước và hơi tinh dầu hỗn hợp.
Lá bạch đàn được dùng dưới dạng thuốc hãm (20g trong 1 lít nước), sứa và cồn thuốc (1/5) làm thuốc bổ, chữa ho, giúp tiêu hoá.Còn dùng cồn thuốc bạch đàn, 2 - 10 mi trong nước sôi, để xông mũi chữa cảm sốt. Cũng dùng tinh dầu bạch đàn để bôi xoa ngoài hoặc pha với dầu thảo mộc làm thuốc nhỏ mũi.
Chú ý: Đôi khi có những trường hợp bị ngộ độc do tinh dầu bạch dàn với triệu chứng nóng rát vùng thượng vị, kèm theo buồn nôn và nôn, và cũng có thể có hiện tượng chóng mặt và nhược cơ. Một trong những triệu chứng sớm nhất là cảm thấy ngạt thở, ở một số bệnh nhân tăng cảm ứng, liều điều trị bình thường cũng gây viêm da.
Bên cạnh bạch đàn chanh, bach đàn xanh (E.globulus) được sử dụng rộng rãi làm chất diệt muỗi, chấy, rận, rệp, bọ chét và tinh dầu của cây này là một thành phần của các thuốc diệt khuẩn và tẩy uế, được sử dụng ở các rạp hát. Chế phẩm có tinh dầu này được trộn thêm một lượng nhỏ tinh dầu bạch đàn chanh có mùi dễ chịu hơn.
Phần cineol của tinh dầu clo hóa có tác dụng tẩy uế tốt. Lá khô bạch đàn xanh được dùng dưới dạng cồn thuốc để chữa hen, lao phổi và viêm phế quản mạn tính. Nước sắc lá được dùng làm thuốc diệt sâu bọ và chấy, rận, rệp. Rễ được dùng làm thuốc tẩy. Tinh dầu dùng để điều trị các bệnh đường hô hấp. Ở Trung Quốc, ngoài cây thanh cao hoa vàng, có báo cáo nêu cây bạch đàn đỏ (E.robusta) cũng dược sử dụng làm thuốc trị sốt rét.
Bài thuốc Có bạch đàn chanh
Thuốc nhó mũi Rinaseptol, gồm: Dầu thảo mộc ép nguội, đã loại tạp chất và trung tính hoá: 95p.l00 Hỗn hợp các tinh dầu bạch đàn chanh, tinh dầu khuynh diệp, tinh dầu vương tùng và một số tinh dầu khác (đã tinh chế để làm dịu mùi) : 5p.l00. Trị viêm mũi cấp và mạn tính. Còn dùng để dự phòng các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp như sổ mũi, viêm mũi, viêm họng, viêm amidan.