Vị thuốc vần B
Bát Giác Liên
Bát Giác Liên có Tên khác: Pha mỏ (Tày), độc cước liên, quỷ cữu.
Họ: Hoàng liên gai (Berberidaceae).
Mô tả
Cây thảo, cao 30 - 50cm. Rễ cứng chia nhiều đốt, có nhiều rễ nhỏ hình sợi. Thân nhẵn, mọc đứng, màu lục, đường kính 0,5-lcm. Lá mọc so le, thường 1-2 cái, có 6 - 8 cạnh, góc cạnh lỗi thành mũi nhọn, mép có răng cưa sắc, không đều, gân lá hình khiên, hai mặt gần như cùng màu; cuống lá dài 20 - 40 cm, đính vào giữa phiến lá.
Hoa mọc tập trung dưới tán lá (thường từ lá thứ hai mới có hoa) 4-12 cái, hình lồng đèn, màu đỏ tím sẫm, cuống hoa rời nhau, dài 3-4 cm, có lông; đài 6 phiến dày, 3 lá vòng ngoài, ngắn (1 cm), 3 lá vòng trong dài gấp đôi (2 cm), màu lục có lông ở mặt ngoài; tràng 6 cánh mỏng bằng nhau, xếp thành hai vòng; nhị 6, hình liềm đính với cánh hoa (không xếp xen kẽ), mặt ngoài màu đỏ tím, mặt trong màu vàng, hai bao phấn dính liền với cuống nhị; nhụy hình trái xoan, màu lục nhạt, đầu nhụy sù lên như bông, màu vàng nhạt.
Mùa hoa quả: tháng 3-5.
Bát giác liên và tác dụng chữa bệnh của nó
Phân bố, sinh thái
Podophyllum L. là một chi nhỏ trong họ Berberidaceae. Đã có tác giả tách chi thành họ riêng là Podophyllaceae. Ở Việt Nam chi này mới chỉ thấy 1 loài là bát giác liên.
Bát giác liên phân bố rải rác ở một số tỉnh miền Trang và Nam Trung Quốc (Vân Nam, Quảng Tây...). Ở Việt Nam, cây cũng chỉ thấy phân bố rất hạn chế ở một số tỉnh vùng núi phía bắc như Cao Bằng; Bắc Cạn (Ba Bể); Hà Tây (núi Ba Vì); Hòa Bình (vùng Chợ Bờ, huyện Đà Bắc) và Lạng Sơn (núi Khau Cú).
Bát giác liên là cây dặc biệt ưa ẩm và ưa sáng. Cây mọc rất rải rác dưới tán rừng, bên khe suối, hốc đá. Độ cao phân bố 1000 - 1300 m. Phần trên mặt đất lụi hàng năm vào mùa khô. Vào tháng 3, từ phần thân rễ mọc lên 1 - 3 chổi, đó là những thân giả mang lá sau 30 - 45 ngày, khi lá đạt được độ trưởng thành, cây bắt đầu ra hoa.
Tuy nhiên, trên thực tế nụ hoa đã được hình thành và phát triển gần như cùng một lúc với lá. Cây tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt. Thân rễ cũng có khả năng phân nhánh; sau mỗi năm, phần trên mặt đất tàn lụi, đồng thời tạo thành một "đốt củ" ở thân rễ. Căn cứ vào số đốt củ trên trạc chính của thân rễ, có thể ước tính được tuổi của cây.
Bát giác liên là loại cây thuốc thuộc diện quý hiếm ở Việt Nam. Hiện nay, cây đã trở nên cực hiếm, cần được ưu tiên nghiên cứu bảo tồn.
Bộ phận dùng
Thân rễ
Thành phần hóa học
Thân rễ bát giác liên chứa nhựa 2 - 4%, trong đó có chủ yếu podophylotoxin 0,4 - 0,8%, picropodophylotoxin. Ngoài ra, còn có desoxypodophylotoxin, kaempferol, quercetin (Trung dược chí I, 1993, Trung dược từ hải, 1993).
Tác dụng dược lý
Từ bát giác liên, chiết tách được một thành phần kết tinh, có tác dụng kích thích tim ếch cô lập, làm tim ngừng đập ở thời kỳ tâm thu, làm giãn mạch máu tai thỏ, còn đối với mạch máu chi sau của ếch và mạch máu thận của thỏ, thuốc có tác dụng gây co bóp nhẹ.
Thành phần nhựa của bát giác liên có tác dụng gây nôn, tiêu chảy và gây tử vong cho mèo thí nghiệm. Chất podophyllotoxin thí nghiệm trên chuột nhắt trắng và chuột cống trắng với nhiều mô hình gây ung thư thực nghiệm đều có tác dụng ức chế tế bào ung thư như tế bào ung thư bệnh bạch cầu cấp tính, tế bào adenocarcinoma và melanoma.
Ngoài rađối với tế bào ung thư người KB, thuốc cũng có tác dụng ức chế. Cơ chế tác dụng chủ yếu là ức chế tế bào phân chia tiền kỳ (G2). Podophyllotoxin dùng bằng đường uống gây tiêu chảy nặng, đau bụng, đi ngoài ra máu, nghiêm trọng có thể dẫn đến suy sụp kiệt sức. Dùng bằng đường tiêm, đầu tiêu xuất hiện tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương, về độ độc cấp tính, thí nghiệm trên chuột nhắt trắng bằng đưòng tiêm xoang bụng, podophyllotoxin có LD50 = 30 - 35 mg/kg.
Do có độc tính quá lớn nên pođophylotoxin không thể sử dụng trực tiếp trên lâm sàng được. Người ta cải tiến cấu trúc hóa học, dùng các dẫn chất có độ độc thấp hơn và đã được ứng dụng có kết quả trên lâm sàng trong điều trị một số bệnh ung thư. Các hoạt chất quercetin và kaempíerol có tác dụng giảm ho, lợi đờm trong viêm phế quản mạn tính.
Tính vị, công năng
Bát giác liên có vị đắng, cay, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, hóa đờm, tán kết, khử ứ, tiêu thũng. Có tiểu độc.
Công dụng
Trong y học cổ truyền, bát giác liên được đùng chữa lao thương, ho, hen, nôn ra máu, viêm họng, đau dạ dày, tràng nhạc, mụn nhọt, áp xe vết thương rắn cắn.
Liều dùng: 3 - 9g, sắc nước uống trong ngày, hoặc chế thành hoàn tán.
Dùng ngoài cây tươi giã nát đắp tại chỗ hoặc rễ mài lấy nước bôi.
Chú ý: phụ nữ có mang không được dùng.
Bài thuốc có bát giác liên
1. Chữa tràng nhạc: Rễ bát giác liên nghiền thành bột, điều chế với giấm, đắp vào hạch sưng đau, hoặc dùng thân rễ 30g, sắc nước uống, còn bã đắp tại chỗ.
2. Chữa ung thư vú: Bát giác liên, hoàng đò quyên, mỗi vị 15g, tử bối thiên quỳ 30g ngâm với 500ml rượu trắng trong 7 ngày. Mỗi lần uống 10-15 ml, ngày 2-3 lần. Dùng ngoài xoa.