Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần C

Cam Thảo Dây

14:05 12/05/2017

Cam thảo dây Còn gọi là tương tư tử, tương tự đậu, tương tư đằng, dây cườm, dây chí chi, ang krang, angkreng (Cămpuchia).

Tên khoa học Abrus precatorius L. (Abrus minor et pauciflorus.. Glycine abrus L.).

Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).

Dây cam thảo cho những bộ phận dùng làm thuốc sau đây:

1. Rễ và lá dùng thay cam thảo bắc ờ nhiều nước, do đó còn có tên liane réglisse (dây cam thảo), réglisse d’Amérique (cam thảo châu Mỹ), réglisse indienne (cam thảo Ân Độ).

2. Hạt là tương tư íử-Semen Abri (Semen Jequiriti).

A. Mô tả cây

Dây cam thảo là một loại dây leo, cành gầy nhỏ, thân có nhiều xơ. Lá kép hình lông chim, cả cuống dài 15-24cm, gồm 8-20 đôi lá chét, cuống chung ngắn, cuống lá chét càng ngắn hơn, phiến lá chét hơi hình chữ nhật dài 5-20mm, rộng 3-8mm. Hoa màu hồng mọc thành chùm nhỏ ở kẽ lá hay đầu cành. Cánh hoa hình cánh bướm. Quả thon dài 5cm, rông 12-15mm, dày 7-8mm, mặt có lông ngắn, hạt từ 3 đến 7, hình trứng, vỏ rất cứng, bóng, màu đỏ với một điểm đen lớn quanh tễ

Cam thảo dây và tác dụng chữa bệnh của nó

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Dây cam thảo mọc hoang và được trồng ở khắp nơi. Tại Hà Nội người ta bán thành từng bó dây và lá cam thảo. Rễ của dây cam thảo ít thấy ở thị trường. Hạt ít thấy bán hơn.

C.Thành phần hóa học

Rễ và lá dây cam thảo chứa một chất ngọt tương tự như glyxyrizin có trong rễ cam thảo bắc. Tuy nhiên lượng chất ngọt này rất ít lại có vị khó chịu và đắng. Tỷ lệ chất này chỉ có 1-2% (ĐỖ Tất Lợi, 1960). Hạt chứa một chất protit độc gọi là abrin C|2HI4N202, chất abralin H13H,P7 là một glucozit có tinh thể, men tiêu hóa chất béo lipaza 2,5% chất béo, chất henagglutinin làm vón máu, và nhiều men ureaza. Vỏ ngoài hạt. có sắc tô' màu đỏ. Có tài liệu nói có axit abrussic. CH-CH2-CH-COOH H N CH3 NH Abrin

D. Tác dụng dược lý

Chất abrin là một protit độc, thuộc nhóm phy- totoxin, nhưng so sánh với chất rixin (protit lấy ờ hạt thầu dầu) thì kém độc hơn. Tuy nhiên tác dụng cũng gần giống nhau: Abrin có tính chất một kháng nguyên (antigene) vào cơ thể có thể gây trong cơ thể một chất kháng thể (anticorps).

Tác dụng focmon lên abrin, ta có một chất ana- toxin, chất anatoxin cũng gầy trong cơ thể chất kháng thể. Chất abrin chịu tác dụng của men pepsin'của dạ dày khỏe hơn chất rixin. Abrin gây vón hồng cầu một cách dễ dàng. Khi nhỏ vài giọt dung dịch abrin vào kết mạc mắt, sẽ gây phù tấy kết mạc và gây hại tới giác mạc một cách vĩnh viễn, do đó khi dùng điều trị đau mắt bằng hạt này . như kinh nghiệm trong nhân dân cần hết sức thận trọng.

Ta có thể chiết chất abrin như sau: sắc hạt hoặc pha nước sôi với hạt, lọc lấy nước rồi cho vào cồn để kết tủa. Sấy khô. Độ độc của hạt dây cam thảo được một số dân tộc vùng Tây Ân Độ dùng đầu độc: Ngâm hạt với nước, giã nát, thêm ít dầu vào, nặn thành những mũi nhọn, khi những mũi nhọn này đâm vào da, gây loét tại chỗ, ngấm vào máu và gây chết trong 48 giờ. Tuy nhiên theo một số tác giả, thì hạt cây không độc vì tại Ai Cập, có người dùng hạt này để ăn, hoặc trẻ con tại một số bến tàu ở châu Âu hay chơi hạt này, nhiều khi nhỡ ăn phải mà không chết. Nhưng cần chú ý là trẻ con nuốt phải hạt nguyên không nhai vỡ nát, hoặc ăn thì phải nấu chín mà chất độc abrin thì có thể bị nhiệt làm giảm độc.

E. Công dụng và liều dùng

1. Rễ, thân và lá được nhân dân nhiều nước châu Mỹ, châu Âu, châu Á dùng thay vị cam thảo bắc trong các đơn thuốc. Tuy nhiên do hoạt chất không giống nhau hẳn, cho nên việc thay thế chưa hoàn toàn hợp lý. Nên chú ý trồng cây cam thảo bắc để dùng. Tại Xênêgan, những người ca hát thường nhai lá cây này cho ngọt giọng. Tại đông châu Phi, một số dân tộc dùng lá chữa rắn độc cắn.

2. Hạt thường dùng ngoài làm thuốc sát trùng: Giã hạt cho nhỏ, đắp lên chỗ đau. Tuy nhiên có độc cần chú ý. Trước đây người ta hay dùng hạt này chữa bệnh đau mắt hột, đau mắt thường: 3 đến 5 hạt, giã nát ngâm với 1 lít nước. Ngày nhỏ vào mắt 3 lần thuốc này. Khi mới dùng thuốc gây phản ứng, nhưng sau 48 giờ phản ứng bớt. Sau 1 tuần giác mạc trờ lại bình thường. Thuốc để lâu không có tác dụng cho nên dùng đến đâu chế đến đó. Tuy nhiên thuốc có độc, gây phù tấy kết mạc, do đó về sau người ta không dùng nữa.

Chú ý: Đừng nhầm hạt dây cam thảo kể ưên với hạt cây kiền kiện hay trách quạch (Adenanthera pavonina L.) thuộc họ Trinh nữ (Mimosaceae).

Cây này là một cây to, cao chừng 20m. Lá 2 lần kép lông chim, cuống chung to khỏe, dài 40cm hay hơn. Lá chét 6 đôi và một lá chét tận cùng, kích thước không giống nhau tùy theo mọc ờ cao hay ở thấp. Cụm hoa mọc thành bông dài 15mm. Quả hình liềm dài 15-20cm, rộng 15mm khi mở ra, thì vặn vào nhau như lò xo. Hạt nhìn thấu kính, 2 mặt phình lên, mầu đỏ bóng. Mùa hoa: tháng 2-3, mùa quả: tháng 6-7. Chú ý hạt cây này màu đỏ tuyền, còn hạt dây cam thảo nửa đỏ, nửa đen, ở giữa nửa đen có tễ của hạt. Trong hạt cây này có khoảng 25% dẩu, 30% chất protit.

Tại Việt Nam chúng tôi chưa thấy ai dùng hạt cây này làm thuốc. Trẻ con thường dùng chơi như choi hạt dây cam thảo. Tại các nước khác người ta dùng hạt làm thuốc, ở Giava, giã hạt đắp lên mụn nhọt để cho chóng vỡ mủ, chữa nhức đầu tê thấp.

Tại Ân Độ và Malaixia lá sắc uống chữa tê thấp, gỗ làm thuốc bổ. Tại Cămpuchia vỏ cây dùng chữa lỵ, với tên vỏ cây chan trey, mon trey.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC