Vị thuốc vần C
Cây Dâu
Còn gọi là mạy môn (Thổ), dâu cang (Mèo), tầm tang.
Tên khoa học Morus alba L. Morus acidosa Griff.
Thuộc họ Dâu tằm Moraceae
Dầu tằm cung cấp cho ta các vị thuốc sau đây:
1. Lá dâu = tang diệp -Folium Mori.
2. Vỏ rẽ cây dâu = tang bạch bì-Cortex Mori radicis
3. Quả dâu = tang thẫm-Fr«c/Ms Mori.
4. Cây mọc ký sinh trên cây dâu=tang ký sinh (Ramulus Loranthi) có tên khoa học là Loranthus parasiticus (L.) Merr, thuộc họ Tầm gửi Loranthaceae.
5.Tổ bọ ngựa trên cây dâu = tang phiêu tiêu- Ootheca Mantidis (Hình 558).
6. Sâu dâu = con sâu nằm trong thân cây dâu. Vốn là ấu trùng của một loại xén tóc.
A. Mô tả cây
Cây dâu là một cây có thể cao tới 15m, nhưng thường do hái lá luôn nên chỉ cao 2-3m. Lá mọc so le, hình bầu dục, nguyên hoặc chia thành 3 thuỳ, có lá kèm, đầu lá nhọn hay hơi tù, phía cuống hơi tròn hoặc hơi bằng, mép có răng cưa to. Từ cuống lá toả ra 3 gân rõ rệt. Hoa đơn tính, khác gốc, hoạ đực mọc thành bông, có 4 lá đài, 4 nhị (có khi 3), hoa cái cung mọc thành bông hay thành khối hình cầu, có 4 lá đài. Quả bế bao bọc trong các lá đài, mọng nước thành một quả phức (quả kép) màu đỏ, sau đen sẫm. Quả có thể ăn được và làm thuốc (tang thầm) (Hình 557, Hm 25,3).
Cây dâu và tác dụng chữa bệnh của nó
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây dâu tằm có nguồn gốc Trung Quốc. Đã được di thực vào Việt Nam từ lâu, hiện nay được trồng ở khắp nơi để lấy lá nuôi tằm, một số bộ phận được khai thác dùng làm thuốc như đã giới thiệu ở phẩn trên.
C.Thành phần hoá học
Trong lá dâu có chất cao su, chất caroten, tanin, rất ít tinh dầu, vitamin c, colin (cholin), ađenin, trigonenlin (trigonellin). Ngoài ra còn có pentozan, đường, canxi malat và canxi cacbonat.
Trong lá dâu có ecdysteron (độ chảy 242°) và inokosteron (độ chảy 255°C), là những chất nội tiết cần cho sự đổi lốt của côn trùng.
Trong võ rễ cây dâu có những hợp chất flavon bao gồm mulberrin (độ chảy 153-6°C), mullberrochromen (độ chảy 232-5°C), xyclomulberrin pđộ chảy 231-2°C) và xyclomulbeưochromen (độ chảy 233-4°C).
Vỏ rễ cây dâu, có axit hữu cơ, tanin, pectin Tvà ß amyrin, rất ít tinh dầu.
Quả dâu có nuớc 84,71%, đường 9,19%, axit 1,80%, protit 0,36%, tanin, Vitamin c, carotin. Trong đưcmg có glucoza và fructoza. Trong axit có axit malic, axit sucxinic. Các vị khác chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.
D. Tác dụng dược lý
Mới thấy có tài liệu nghiên cứu của Nhật Bản (trong Nhật Bản dược vật học tạp chỉ) về vỏ rễ cây dâu. Các tác giả Nhật Bản có cho thỏ uống nước sắc vỏ rễ cây dâu rồi theo dõi lượng dượng trong máu thấy lúc mới uống vào, lượng đường trong máu tăng lên sau giảm dần. Các bộ phận khác của cây dâu chưa có tài liệu nghiên cứu.
E. Công dụng và liều dùng
Còn ở phạm vi nhân dân nhưng rất hay được dùng.
Tang bạch bì làm thuốc lợi tiểu tiện, dùng trong bệnh thuỷ thũng, chữa ho lâu ngày, hen, ho có dờm, băng huyết, chữa sốt, chữa cao huyết áp. Liều dùng hằng ngày 6-18g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột.
Tang diệp chữa sốt, cho ra mồ hôi, cảm mạo, trừ đờm, cao huyết áp, làm cho sáng mắt. Liều dùng 6-18g dưới dạng thuốc sắc.
Tang thầm bổ thân, sáng mắt, bổ toàn thân, giúp sự tiêu hoá, chữa bệnh kém ngủ, râu tóc sớm bạc. Liều dùng 12-20g.
Tang ký sinh bổ gan thận, chữa đau lưng, đau mình, an thai, đẻ xong ít sữa. Liều dùng 12- 20g dưới dạng thuốc sắc.
Tang phiền tiêu lợi tiểu tiện. Chữa đi đái nhiều lần, di tinh, liệt dương, bạch đới, trẻ con đái dầm.Liều dùng 6-12g.
Sâu dâu chữa bệnh trẻ con bị đau mắt, nhiều dử, nhiều nước mắt. Cả con sâu nướng ăn hoặc ngâm rượu.
Theo tài liệu cổ, lá dâu có vị đắng, ngọt, tính hàn, vào hai kinh can và phế. Có tác dụng tán phong, thanh nhiệt lương huyết sáng mắt, dùng chữa phong ôn biểu chứng, lao nhiệt sinh ho, đầu nhức mắt đỏ, nước mắt chảy nhiều, hoa mắt.
Tang ký sinh. Vị đắng tính bình, vào hai kinh can và thận. Có tác đụng bổ can thận, mạnh gân cốt, an thai, làm cho xuống sữa. Dùng chữa gân xương đau nhức, động thai, đẻ xong không có sữa, lưng mỏi đau.
Cành dâu, (tang chi) vị đắng, tính bình, vào kinh can. Có tác dụng khứ phong thấp, lợi quan tiết (khớp xương), dùng chữa phong hàn thấp tì, đau nhức, thuỷ khí, cước khí, chân tay co quắp.
Tang bạch bì: Vị ngọt, tính hàn, vào kinh phế. Có tác dụng tả phế hành thuỷ, chỉ thấu bình xuyễn, dùng chữa phế nhiệt sinh ho, ho ra máu, thuỷ thũng, bụng trướng. Những người phế hư nhưng không hoả và ho hàn thì không dùng được.
Tang thầm (quả dâu) vị ngọt chua tính ôn, vào hai kinh can và thận. Có tác dụng bổ can, thận, nuôi máu, khứ phong, dùng chữa bệnh tiêu khát, loa lịch, mắt có màng, tai ù, huyết hư, tiện bí. Những người đại tiện tiết tả không dùng được.
Tổ bọ ngựa trên cây dâu (tang phiêu tiêu) có vị ngọt, mặn, tính bình, vào hai kinh can và thận. Có tác dụng ích thận, cố tinh dùng chữa di tinh, đái són, đái nhiều lần, kinh nguyệt bế, những người âm hư nhiều hoả, bàng quang nóng không dùng được.
Bài thuốc có các vị thuốc lấy từ cày dâu. (Các bài thuốc kinh nghiệm trong nhân dân)
1.Tang bạch bì:
Chữa ho ra máu: Tang bạch bì 600g. Ngâm nước vo gạo 3 đêm. Tước nhỏ. Cho thêm 250g gạo nếp. Sao vàng, tán nhỏ. Trộn đều. Ngày uống 2 lần. Mỗi lần 8g chiêu bằng nước cơm.
Ho lâu năm: vỏ cây dâu-vỏ rễ cây chanh. Hai vị bằng nhau, mỗi thứ lOg sắc uống trong ngày.
Trẻ con ho có đờm: Tang bạch bì 4g sắc với nước cho uống.
Rụng tóc: Lấy tang bạch bì giã dập, ngâm nước. Đun sôi nửa giờ. Lọc, lấy nước đó gội đầu.
2. Tang diệp:
Chữa nôn ra máu: Lá dâu cuối màu, sao vàng sắc uống. Ngày uống 12-16g.
Mụn nhọt lâu ngày không liền miệng:
Lá dâu sao vàng tán nhỏ, rắc vào mụn đã rửa sạch.
3. Tang ký sinh:
Động thai đau bụng: Tầng ký sinh 60g, giao (hoặc cao ban long) nướng thơm 20g, ngải diệp 20g, nước 3 bát (600ml). sắc còn một bát (200ml). Chia nhiều lần uống trong ngày.
4. Tang thầm:
Chữa tràng nhạc: Tang thầm (loại quả đã chín đen) 2 bát đầy. Cho vào vải vắt lấy nước, cô thành cao mềm. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g.
Tóc không mọc-tóc bạc: Quả dâu ngâm nước, lọc lấy nước xát vào đầu.
5. Tang phiêu tiêu:
Động thai-bí tiểu tiện: Tang phiêu tiêu, nướng vàng tán nhỏ. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 5g.