Vị thuốc vần C
Cây Tổ Ong
Leucas leylanica (L.) R.Br.
Tên đồng nghĩa: Phlomis xeylanica L. Lencas sericea Elm.
Tên khác: Mè hoang, mai hoa, màng màng trắng, bạch thiệt, phong sào thảo.
Họ: Bạc hà (Lamiaceae).
Mô tả
Cây thảo, cao 0,25 - 0,5m. Thân hoá gỗ ở gốc, hình vuông, mọc đứng, có lông. Lá mọc đối, có cuống ngắn hoặc gần như không cuống, hình mác, dài 6 - 7 cm, rộng 1-1,5 cm, gốc thuôn, đầu nhọn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới rất nhạt, mép hơi có răng cưa.
Cụm hoa dày đặc mọc ở ngọn, lá bắc ngắn hơn đài; hoa nhiều màu trắng; đài không cuống, hình trụ, mặt trong và mặt ngoài có lông, răng ngắn không đều, hình tam giác; tràng có ống thẳng hơi có lông, môi trên ngắn, khum, có lông rậm, xẻ 3 thùy nhọn; nhị 4, ngắn hơn môi trên, chỉ nhị có lông, đính ở họng tràng. Quả bế, gần hình trứng thuôn, đầu tròn hoặc cụt, nhan, màu nâu.
Phân bố, sinh thái
Chi Lencas R.Br. trên thế giới có khoảng vài chục loài, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới Châu Âu và có thể cả ở Châu Phi. Ở Việt Nam có 5 loài và 2 thứ (var.). Cây tổ ong phân bố rộng rãi từ Ấn Độ qua Mianma, Trung Quốc, xuống Lào, Campuchia, Thái Lan và Malaysia. Tại Việt Nam, loài này cũng có mặt gần như khắp các tỉnh, từ vùng đồng bằng đến trung du và vùng núi thấp. Tuy nhiên, ở các tỉnh thuộc vùng núi thấp, trung du và ở cả Tây Nguyên đều được coi là nơi phân bổ phong phú của loài cỏ dại này.
Cây tổ ong thuộc loại cây sống nhiều năm hoặc 1 năm. Tại một số tỉnh miền núi biên giới phía bắc, cây có hiện tượng tàn lụi toàn phần vào mùa đông. Cây ưa sáng, ưa ẩm nhưng có khả năng chịu được hạn. Cây tổ ong thường mọc thành đám dày đặc ở nương rẫy, đồi, ven đường, bãi sông. Cây ra hoa quả rất nhiều, tái sinh từ hạt và mọc chồi nhánh khoẻ. Vi thể, chúng thường nhanh chóng tạo thành thảm dày đặc, lẩn át cả cây trồng.
Bộ phận dùng
Cánh mang lá, hay toàn cây bỏ rễ, phoi hay sấy khô.
Tính vị, công năng
Toàn cây cỏ tổ ong có vị đắng, cay, tính ấm, có mùi thơm; vào kinh phế, có công năng giải biểu, phát hãn, khu phong, chỉ khái, hoá đàm. Sách "Sổ tay thường dụng trung thảo dược" ghi: cỏ tổ ong vị đắng, tính bình, hơi ấm; có công năng giải biểu, hoá đàm, chỉ khái, trị thống kinh, minh mục (làm sáng mắt) [TDTH, 1997,111: 1188].
Công dụng
Toàn cây cỏ tổ ong được dùng chữa cảm mạo, sốt, ho, ho gà, viêm đường hô hấp trên, phong nhiệt tê đau, trị sa dạ dày, rối loạn tiêu hoá. Liều dùng mỗi ngày 15 - 25g cây phơi khô hoặc 30 - 60g cây tươi, sẳc lấy nước uổng. Nếu là bệnh cảm mạo hoặc bệnh đường hô hấp, trước khi uống có thể xông vào mặt và đầu. Nhân dân còn dùng chữa bệnh đau mắt, khi bị đau mắt kéo màng. Lấy lá và ngọn cành cây tổ ong, rửa thật sạch, thêm ít muối ăn, giã nát đắp lên mắt. Khi đau răng, dùng 12g lá cỏ tổ ong, sắc đặc rồi ngậm.
Ở Ẩn Độ, dịch lá cây cỏ tổ ong được dùng chữa ghẻ, vảy nến và bệnh ngoài da (Nadkarni, 1999: 740); cũng được dùng để trị nhức đầu, cảm mạo (Chopra et al., 2001: 153).
Ở Indonesia, lá và ngọn cành cây tổ ong được đùng để an thần, chống co giật, cơn động kinh, co thắt phế quản, ho (Van Valkenburg et al., 2001: 337). Còn được dùng chữa nhức đầu, sổ mũi, chóng mặt, chữa đau họng sau khi sinh con, tẩy giun, đặc biệt là tẩy giun đũa cho trẻ con [Medicinal herb index, 1995: 261].
Bài thuốc có cỏ tổ ong
1. Chữa loét dạ dày
Toàn cây cỏ tổ ong, chặt nhỏ, vỏ cây mù u, vỏ cây vú sữa, mỗi vị 12g, sao vàng, hạ thổ, sắc lấy nước uống, ngày một thang. Nếu bị đau do sa dạ dày, dùng một vị cỏ tổ ong, chặt nhỏ, sao vàng, hạ thổ, mỗi ngày lấy 20 - 30g sắc lấy nước uống thay trà.
2. Chữa ho gà
Lá cỏ tổ ong phơi khô, củ tóc tiên (rễ cù mạch môn) chẻ đôi, bỏ lõi; mỗi vị phải sao vàng riêng. Liều lượng mồi vị sau khi đã sao vàng 12g, sắc nước uống, chia làm nhiều lần trong ngày.