Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần C

Chỉ Thực

14:05 04/05/2017

Còn gọi là chỉ xác, xuyên chỉ thực, xuyên chỉ xác.

Tên khoa học Citrus sp.

Thuộc họ Cam Rutaceae. Chỉ thực (Fructus Aurantii immaturi) và Chỉ xác (Fructus Citri aurantii) đều là quả phơi khô của chừng hơn 10 cây chi Citrus và Poncirus thuộc họ Cam Rutaceae nhưng thu hái ở thời kỳ khác nhau.

Chì thực là quả hái vào lúc còn non nhỏ, có khi do bị gió mạnh tự rụng dưới gốc cây (theo chữ Trung Quốc chỉ là tên cây, thực là quả). Chỉ xác là quả hái vào lúc gần chín. Thường bổ đôi để phơi cho chóng khô. Chỉ xác thường to hơn chì thực và thường bổ đôi. Chỉ vẫn là tên cây, xác là còn vỏ và xơ vì quả bổ đôi phơi khô ruột quả bị quắt lại

 A. Những cây cung cấp chỉ thực và chỉ xác Ngay tại Trung Quốc, người ta cũng hái chỉ thực và chỉ xác ở rất nhiều cây khác nhau, đây chỉ kể một số cây chính:

1. Poncìrus trifolia Raf. tên Trung Quốc là chỉ hay câu kết.

2. Citrus wilsonii Tanaka tên Trung Quốc là hươti§'viền.

3. Cỉtrus aurantium L. Tên Trung Quốc là toan đăng hay câu đầu đăng, bì đầu đăng.

4. Citrus aurantium L. var amara Engl. tên Trung Quốc là đại đại hoa. Ở Việt Nam ta cũng hái rất nhiều cây khác nhau thuộc họ Cam quít, việc xác định tên chính xác còn chua làm được. Thường người ta nói đến cây chấp có lẽ thuộc vào cây Citrus hystrừ D. c.

Chỉ thực và tác dụng chữa bệnh của nó

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Những cây có thể cho chỉ thực và chỉ xác mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi miền Bắc và miền Nam nước ta. Những năm trước thu mua ở nhiều tỉnh, nhưng trong năm 1962 chỉ thu mua chủ yếu ở Hà Tĩnh. Ta có thể nghiên cứu sử dụng những quả rụng ở những nông trường trồng chanh cạm của ta tại các tính Bắc Giang, Bắc Ninh, Nghệ An, Thanh Hóa. Muốn có chỉ thực, thường vào các tháng 5, tháng 6, người ta nhặt những quả non, rụng ở dưới gốc cây, rồi đem phơi khô hay sấy khô. Nếu quả to thì bổ đôi mà phơi cho chóng. Khi phơi không nên phơi nắng quá, quả sẽ có màu vàng xấu. Muốn có chỉ xác vào, tháng 7-8 hái những quả gần chín, vỏ còn xanh, bổ đôi rồi phơi hay sấy khô.

C. Thành phần hóa học

Chỉ thực, chỉ xác của ta chưa thấy có tài liệu nghiên cứu. Nghiên cứu chỉ thực của tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc, năm 1958 hệ dược, Viện y học Bắc Kinh tìm thấy 0,09% ancaloit; 20,49% glucozit; 5,86% saponin. Trong chỉ xác tại đó người ta chỉ thấy có 9,89% glucozit. Các hoạt chất khác chưa rõ

D. Tác dụng dược lý

Trong những năm 50, một số tác giả Trung Quốc đã nghiên cứu tác dụng của chỉ thực và chỉ xác trên súc vật. Sau đây là một số kết quầ:

1. Tác dụng trên tử cung và trên dạ dày, ruột:

Năm 1955, Diêm ứng Bổng báo cáo cTrung Hoa y học tạp chí 5: 433-437) đã dùng xuyên chỉ thực, giang chỉ xác, giang chỉ thực, hổ chỉ xác, hồ chỉ thực chế thành dung dịch nước 100% (thể tích) rồi thí nghiệm trên động vật thì thấy rằng trên tử cung cô lập của chuột nhắt, dù có thai hay không có thai, đều cỏ tác dụng ức chế, nhưng cũng có trường hợp không thấy tác dụng. Đối với tử cung thỏ cô lập hay tại chỗ, dù có chửa hay không có chửa đều có tác dụng hưng phấn, nhưng cũng có trường hợp không tác dụng hay có tác dụng ức chế. Đối với mẩu ruột cô lập của chuột nhắt thì chủ yếu thấy tác dụng ức chế, nhưng cũng có trường hợp không thấy phát sinh phản ứng.

Đối với 36 lần thí nghiệm trên mẩu ruột tại chỗ thì 70% thấy có tác dụng ức chế. Tác giá còn dùng chỉ thực, chỉ xác chế thành cồn thuốc và cao lỏng để thí nghiệm so sánh với dung dịch nước thì thấy tác dụng giống nhau, so sánh với tác dụng của adrênalin, thì tác dụng cũng giống nhau. Tuy nhiên tác dụng của thí nghiệm so sánh trên tử cung cô lập của chuột nhắt hay trên mẩu ruột cô lập của chuột nhắt hay trên mẩu ruột cô lập của thỏ thì thấy tác dụng của adrênalin ngắn hơn là tác dụng của cồn chỉ xác và cao lỏng chỉ xác.

Năm 1956, Chu Tử Minh (Trung Hoa y học tạp chí 10: 946-953) đã báo cáo dùng giang chỉ thực và giang chỉ xác, xuyên chỉ thực và xuyên chỉ xác chế thành thuốc sắc 100% (theo thể tích) cho súc vật uống và thụt (đối với thỏ) hoặc cho vào qua lỗ dò của tử cung thỏ, dạ dày và ruột chó đẻ thí nghiệm lâu dài, thì thấy đổi với tử cung của thỏ, dù có chửa hay không có chửa đều thấy tác dụng hưng phấn, đi tới co thắt mạnh lên, có thể tới co cứng. Đối với dạ dày và ruột chó cũng thấy tác dụng hung phấn, làm cho dạ dày và ruột chuyển động mạnh lên nhưng có quy luật. Tác giả cho rằng phản ứng của tử cung thỏ và của người đối với thuốc rất giống nhau, vậy có phải vì chỉ thực và chỉ xác có tác dụng hưng phấn đối với tử cung của thỏ mà trong đông y đã dùng chỉ thực, chỉ xác để chữa sa tử cung, còn tác dụng trên dạ dày và ruột cô lập hoàn toàn ngược lại với tác dụng trên dạ dày và ruột tại chỗ có phải là có quan hệ đối vói vỏ não không.

2. Tác dụng trên mạch máu, bộ máy tiết niệu và hô hấp:

Diêm ứng Bổng đã dùng nước sắc 100% chỉ thực và chỉ xác thí nghiệm đối với huyết áp của chó đánh mê, đo dung tích thận, lượng nước tiểu, tác dụng trôn tim ếch cô lập (phương pháp Straub), trên huyết quản một loại cóc (theo phương pháp Fröhlich) và trên khí quản của chuột bạch đã đi đến những kết quả sau đây:

a) Huyết áp tăng cao, dung tích của thận giảm xuống.

b) Nồng độ thấp lăm cho tim cô lập của loại cóc co bóp mạnh, nhưng ở nồng độ cao, sự co bóp lại giảm.

c) Tiêm tĩnh mạch chó gây mê thì thấy tiết niệu tạm thời ngừng lại.

d) Có tác dụng co thắt nhẹ đối với mạch máu của loại cóc. e) Không thấy tác dụng giãn nỡ hay co thắt đối với chi khí quản của chuột bạch. Thí nghiệm bằng cồn hay cao lỏng chỉ thực và chỉ xác đều thấy kết quả tương tự.

E. Công dụng và liều dùng

Chỉ thực và chỉ xác đều là những vị thuốc thông dụng trong đông y. Theo tài liệu cổ chỉ thực và chỉ xác có vị đắng, chua, tính hơi hàn, vào hai kinh tỳ và vị. Tác dụng phá khí, tiêu tích, hóa đờm, trừ bĩ (báng ở bụng), lợi cách, khoan hung. Chỉ thực, chỉ xác tác dụng giống nhàu nhưng chỉ xác yếu hơn. Mặc dầu trong các quả này lúc tươi có chứa tinh dầu, nhưng người ta ít chú ý dùng tinh đẩu, vì các vị này càng để lâu càng cho là tốt hơn. Cả hai vị đều là những thuốc có tác dụng giúp sự tiêu hóa, trừ đờm, táo thấp, lợi tiểu tiện, ra mồ hôi, yên dạ dày, ruột v.v... Ngày dùng 6 đến 12g (có thể dùng hơn) dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.

Đơn thuốc có chỉ thực và chỉ xác

Chỉ truật thang: Chỉ thực 20g, bạch truật 6g, nước 600ĩĩ)l, sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày. Dùng trong những trường hợp dạ dày và gan kém hoạt động, không đi ỉa được (đơn thuốc của Trương Trọng Cảnh). Bài thuốc chữa trẻ con đi lỵ, ăn uống thất thường: Chỉ xác sấy khô tán nhỏ. Mỗi ngày cho uống 2 lần, mỗi lần 3g.

Chữa đại tiện khó khăn: Chỉ thực 20g, bồ kết 20g. Hai vị tán nhỏ, làm thành viên bằng hạt ngô. Mỗi ngày uống 10 viên vào buổi tối, trước khi đi ngủ. Người ta còn dùng chỉ thực và chỉ xác dể chữa ho, hen, đờm xuyễn. Tuy nhiên trong đông y, người ta còn khuyên là phụ nữ có mang, gầy yếu và những người tỳ vị hư hàn mà không thấp và tích trệ thì không nên dùng.

 

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC