Vị thuốc vần C
Chùa Dù
Còn gọi là tả hoàng đồ (Lào Cai), Dê sua tùa.
Tên khoa học Elsholtzia blanda Benth., E. penduliflora w. Smith.
Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).
A. Mô tả cây
Chùa dù (Sìn hồ, Lai Châu) còn có tên dê sua tùa (xã Huổi Dạng, Mường Lộng, Kỳ Sơn, Nghệ An) hay tả hoàng dồ (Mường Khương, Bắc Hà, Lào Cai) là một cây nhỏ cao l-3m, mọc hằng nãm. Thân vuông nhẩn, rễ cọc cứng, cành mọc từ lá, lá mọc đối chéo chữ thập. Phiến lá hình mác nhọn dài 5-15cm, rộng l-5cm, cuống lá dài 3-8mm, có lông ngắn, mép lá khía răng cưa không đểu, màu hơi tím, mặt trên lục sảm, mặt dưới nhạt hơn.
Hoa mọc ở đầu cành và nách lá, cụm hoa hình bông dài 10-15cm, các hoa mọc vòng quanh trục của bông, các vòng xít nhau, riêng ở phía đầu cuống có 1-2 vòng cách xa nhau. Toàn bông 10 đến 30 vòng, mỗi vòng 6-30 hoa. Quả hình bầu dục dẹt, dài 0,5 -lmm, và xám đen hơi cứng, có rốn trắng ở gần đầu quả ( Hình 584).
Chùa dù và tác dụng chữa bệnh của nó
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây mọc hoang dại tại những vùng núi cao lạnh như Mường Khương, Bắc Hà, Sapa (Lào Cai), Sìn Hồ (Lai Châu), Huổi Dạng, Mường Lộng (Kỳ Sơn, Nghệ An). Năm 1974, chúng tôi đã đưa thử một số cây về đồng bằng nóng thấp, thấy cây mọc tốt từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau thì cây chết. Tại những vùng núi cao lạnh cây phát triển vào đầu tháng 3 đến tháng 12 thì cây chết. Mùa thu hái vào các tháng 7-8 cho đến lúc cây tàn lụi (tháng 11-12) nhưng chủ yếu là 7-8.
Hái toàn cây về phơi khô dùng làm thuốc hoặc cất tinh dầu. Không phải chế biến gì đặc biệt.
C. Thành phần hoá học
Trong chùa dù thành phẩn chủ yếu hiện nay là tinh dầu (4-6 phần nghìn). Hàm lượng cao nhất vào các tháng 8-9 trong lá, sau đến hoa và cành. Tinh dầu cất ra rất lỏng, màu vàng cam để lâu chuyển vàng đỏ, mùi thơm như tinh dầu khuynh diệp. Cất lại có màu vàng chanh. Tỷ trọng d20o =0,953, nD22° = l,462; (XD +2°3. Chỉ số axit 0,27, chỉ số este 3,81, chỉ số xà phòng 0,08, chỉ sô' axetyl hoá 34,4 , chỉ số xà của phần axetyl hoá 38,77, chỉ số iôt 34,09. Thành phần chủ yếu là xineola chiếm 75-80% (bằng sắc ký khí) hoặc 56-60% (bằng resorxin) (Đỗ Tất Lợi, Nguyễn Hải Ban và Chu Bá Nam, 1974).
D. Công dụng và liều dùng
Trong nhân dân, chùa du được dùng làm thuốc chữa cảm cúm, sốt, ho sốt tiểu tiện ra máu, dưới dạng thuốc sắc hay thuốc hãm, cho người và cho ngựa. Ngày dùng 10 đến 16g. Có thể dùng làm nguyên liệu cất tinh dầu dùng uống hay xoa bóp thay tinh dầu khuynh diệp.