Vị thuốc vần C
Cô Ca
Erythroxylum coca Lam.
Tên nước ngoài: Coca bush, cocaine plant, Bolivian coca, Peruvian tobacco (Anh); coca, haschish des mexicains, haschish des Péruviens (Pháp).
Họ: Cô ca (Erythroxylaceae).
Mô tả
Cây nhỏ hay cây nhỡ, cao 3 - 5m. Lá mọc so le, có cuống ngắn, kèm theo hai lá kèm nhỏ biến đổi thành gai ngắn, phiến hình bầu dục, gốc thuôn, đầu tròn, mép nguyên, hai mặt nhẵn, mặt trên màu lục bóng, mặt dưới nhạt có hai đường cong (gân giả) ở hai bên gân giữa chạy từ cuống đến đầu lá.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành xim gồm toàn hoa đều, lưỡng tính, màu trắng; đài 5 răng nhỏ; tràng 5 cánh, mặt trong có một lưỡi nhỏ; nhị 10, dính nhau ở gốc thành ống; bầu 3 ô, 2 ô lép, noãn 1 - 2.
Quả hạch nhỏ, khi chín màu đỏ tươi, có đài tồn tại, chứa một hạt. Cây rất đa dạng với nhiều chủng loại phong phú.
Phân bố, sinh thái
Chi Erythroxylum p. Browne ở Việt Nam đã biết có 5 loài (Nguyễn Tiến Bân, et al., 2003), trong đó 4 loài mọc tự nhiên ở một số tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ: Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Tây Ninh và 1 loài E. novo - granatense Hieron được nhập trồng làm cảnh ở Nha Trang, thành phố Hồ Chi Minh... Được biết loài nhập nội này và 4 loài mọc tự nhiên ở nưóc ta không có (hoặc gần như không có) cocain. Loài cô ca kể trên (E. coca Lamk.) chưa được nhập vào Việt Nam. Cây có nguồn gốc ở vùng núi Andes và được trồng ở Colombia vả Pêru.
Côca là loại cây ưa sáng, thích nghi với điều kiện khí hậu nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Cây mọc tự nhiên hoặc được trồng ở vùng Nam Mỹ sinh trưởng phát triển gần như quanh năm, nhất lá thời kỳ mưa ẩm. Ra hoa quả nhiều hàng năm; tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt, đồng thời nếu bị cắt cành thì càng có khả năng mọc chồi khỏe. Cây dễ dàng trồng đưọc bằng hạt. Tuy nhiên, là một cây có chất gây nghiện nên ở hầu hết các quốc gia đều ngăn cấm việc phát triển loài cây độc hại này.
Bộ phận dùng
Lá.
Cách trồng
Cô ca nhân giống chủ yếu bằng hạt. Cách gieo hạt có thế gieo trong bầu đã có đất và phân trộn đều. Khi cây cao từ 50 cm trở lên có thể đưa ra trồng. Ngoài ra cũng có thể gieo hạt ở vườn ươm, sau đánh cây con đem trồng.
Thời vụ: gieo hạt cũng như đánh cây con đem đi trồng, tốt nhất vào mùa xuân. Đất trồng cô ca cần chọn đất cao ráo, thoát nước, độ dốc vừa phải. Phân lót chủ yếu phân chuồng mục, trồng xong tưới nước ngay.
Thành phần hóa học
Lá chứa alcaloid là cocain dùng trong y học để gây tê tại chỗ, ngoài ra còn có 1 số alcaloid khác. Cocain có hàm lượng từ 0,3 - 1,5% trung bình 0,8% trong lá tươi. Các alcaloid khác bao gồm: methylergonin cinamat, benzoylecgonin, truxilin, hydrocy - tropacocain, tropacocain, ergonin, cuscohygrine, dihydrocuscohygrm, nlcotin và hy grin và cinramoyl - cocain. Lá còn cliíra 0,08 - 0,15% tinh dầu.
Tác dụng dược lý
Lá cô ca là nguồn nguyên liệu chiết xuất cocain. Alcaloid cocain có nhiều tác dụng dược lý, tác dụng quan trọng nhất là tác dụng gây tê. Cocain tác động gây tê do phong bế kênh ion Naf trong màng tế bào thần kinh, làm chậm sự dẫn truyền xung động thần kinh và cuối cùng làm gián đoạn sự lan truyền các điện thể hoạt động. Vì cocain có độc tính và khả năng gâv nghiện cao, người ta đã nghiên cứu chế tạo các thuốc tổng hợp hoá học để thay thế.
Ngoài tác dụng gây tê, cocain còn là một thuốc kích thích thần kinh giao cảm. do phona, bế sự tái hấp thu catecholamm ở cả hệ thần kinh ngoại biên và trung tâm. Cocain gây sảng khoái chủ yếu do ức chế sự tái hấp thu catecholamin. đặc biệt ức chế sự tái hấp thu dopamin ở các khớp thần kinh của hệ thần kinh trung ương [de Padua L. s. et al., 1999: 258-262],
Tác dụng của cocain trên não rất mạnh, một liều tiêm duy nhất có thể gây rối loạn nghiêm trọng chức năng của não, như rối loạn tâm thần, ảo giác, u sâu xuất hiện sau một ngày và thường kéo dài hàng tuần và hàng tháng. Việc lạm dụng kéo dài dẫn tới phát triển các triệu chứng nặng hơn. Tình trạng suy mòn xuất hiện với sự gầy mòn cực độ, sự thay đối dần hành vi. lãnh đạm, ảo giác, và sự thèm muốn thuốc mãnh liệt.
Tác dụng phá huỷ trên chức năng của não trở nên rõ rệt. Việc sử dụng mạn tính cocain có thể dẫn đến lo lắng, lú lẫn, mất ngủ, liệt dương, và việc sử dụng liều lớn thời gian dài có thế dẫn đến loạn tâm thần dạng paranoia. Người nghiện cocain trở nên suy sụp về cơ thể, tâm thần và đạo đức. Cocain có thể gâv hại cho sự phát triển của thai ỊNadkarni K.M., 1999: 510 - 512],
Cocain là một thuốc có tác dụng cường giao cảm gián tiếp gây co mạch, tăng huyết áp, nhịp tim nhanh và giãn đồng tử [Schmitt H., 1970: 134 -135].
Công dụng
Cocain là thuốc độc bảng B. Cocain dưới dạng hydroclorid được dùng từ lâu làm thuốc gây tê trong phẫu thuật nhãn khoa và tai, mũi và họng. Mặc dù nó được áp dụng tại chỗ, nhưng sự hấp thu toàn thân có thế xảy ra một cách rõ rệt, gây các tác dụng phụ như nhịp tim nhanh, sàng khoái. Hiện nay, nó được thay thể bởi những thuốc ít độc hơn.
Cocain hydroclorid cũng đã được dùng là thành phần hoạt chất duy nhất trong các thuốc nước giảm đau, hoặc cho thêm vào các dung dịch dùng uống chứa muối morplun để làm tăng tác dụng giảm đau. Tuy nhiên, các tác dụng này hiện nay bị coi là lỗi thời và không còn được dùng nữa.
Nước uống không có rượu côca côla lúc đầu có chứa cao chiết từ lá cô ca và cao giàu cafein chiết từ lá côla (cola nítido), nhưng hiện nay chỉ dùng lá cô ca đã được loại bỏ hết cocain để làm tăng thêm mùi vị của siro chứa cao cô la Lá cô ca được người thổ dân da đỏ Nam Mỹ nhai với vôi và tro của một loại cây. Chất kiềm cho thêm vào lá cô ca làm dễ dàng sự gài phóng cocain ở dạnsỉ bazơ [Padua L. s. et aL 1999: 258 - 262].
Người dân địa phương ở một số vùng ở Arhentina dìum lá cô ca để làm thuốc trị sót rau thai (phối hợp với một số câv thuốc khác) làm thuốc dễ tiêu, lợi sữa, hoặc trị viêm phổi, dưới dạng thuốc sắc, thuốc nhai hoặc hãm uống; như trà (Scarpag. F. et al., 2004). Người dân địa phương một số vùng ở Bolivia dùng lá cô ca dưới dạng thuốc sắc uống hoặc nhai trị cảm lạnh, đau dạ dày: hoặc nhai và đắp lên trán trị nhức đầu (Maciam. J. et al.. 2005)
Các bảng câu hỏi được phân phát ở Chicago, Costa Rica và Colombia đã thu nhận được những câu trả lời cho biết lá cô ca có trong thành phần các chế phẩm thảo dược bán không cần kê đơn để điều trị đau miệng, các bệnh loét và ung thư ở các nơi này (Colvard M. D. et al., 2006) làm thuốc giảm đau.