Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần C

Công Cộng

09:05 13/05/2017
Công Cộng Còn gọi là nguyễn cộng, lam khái liên, khổ đảm thảo, xuyên tâm liên, roi des amers (Pondichery hồi thuộc Pháp)-green chừeta (Anh).
 
Tên khoa học Andrographis panìculata (Burum. f.) Nees ựusticia paniculata Burm. f.).
 
Thuộc họ Ô rô Acanthaceae.
 
A. Mô tà cây
 
Cây nhỏ, thuộc thảo, mọc thẳng đứng, cao từ 0,3-0,8m, nhiều đốt, rất nhiều cành. Lá mọc đối, cuống ngắn, phiến lá hình trứng thuôn dài hay hơi hình mác, hai đầu nhọn, mặt nhẵn, dài 3- 12cm, rộng l-3cm, nguyên, mềm. Hoa màu trắng, điểm hồng, mọc thành chùm ờ nách lá hay đầu cành, thành chùy. Quả dài, 15mm, rộng 3,5mm, hơi nhẵn. Hạt hình trụ, thuôn dài. Mùa hoa 9-10
Công cộng và tác dụng chữa  bệnh của nó
 
B. Phân bố, thu hái và chế biến 
 
Mọc hoang dại và được trồng ở nhiều tỉnh miền Bắc để làm thuốc. Còn mọc ở Ân Độ, Giava, Malaixia, miền man Trung Quốc (Quảng Châu). Người ta dùng rễ hay toàn cây phơi hoặc sấy c. Thành phần hóa học Cây này được nghiên cứu ở Ân Độ từ lâu. Năm 1887, E. Pozzi đã cho biết trong cây có một tỷ lệ tanin khá cao tập trung ở vỏ thân, cành và vỏ rễ. Năm 1949, Sen Gupta s. B., Banariée s. và D. Chakravarti đã chiết được từ cây công cộng 2,68% một chất glucozit đắng đặt tên là androgaphiolide ựnd. J. Phanrm., 11, 1949, 77- 78). Năm 1951, Kleipool và Koostermans ờ Inđônêxia đã nghiên cứu cấu trúc chất này (Rec. Trav. Chim., 70, 1951, 1085-88). Năm 1952, Kleipool còn phát hiện trong công cộng một chất không có vị đắng thuộc nhóm các chất lacton và đặt tên là neoandrographiolide (Nature Gr. Br., 1952, 169, 33-34) Năm 1952, Chakravarti Mrs D. và R. N. Chakravarti đã xác minh rằng andrographiolide là một trihydroxylacton với một nhón hydroxyl bậc ba. Các tác giả này đã nghiên cứu cấu trúc và quang phổ hấp thụ và đã bác bỏ giả thuyết của Guhasircar và Hoktader ự. Ind. Chem. Soc., 16, 1939, 333) cho rằng trong androraphiolide có một nhóm methylendioxyl. D. Công dụng và lỉều dùng Cây này được dùng từ lâu trong nhân dân Việt Nam, Trung Quốc, Ận Độ và Inđônêxia. Theo tính vị ghi trong tài liệu y học dân gian Quảng Châu (Trung Quốc) thì cây này có vị đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, chỉ thống (giảm đau). Dùng trong những trường hợp lỵ cấp tính, viêm ruột và dạ dày, cảm mạo, phát sốt, viêm họng, amiđan, viêm phổi, dùng ngoài chữa rắn độc cắn, xường khớp đau nhức. Tại Ấn Độ cây này được dùng với tên Krariyât làm thuốc bổ đắng (cho nên tên Pháp của cây này-trong thời kỳ pondichery còn là thuộc địa của Pháp-là vua của thuốc đắng-roi des amers) dùng trong những trường hợp yếu toàn thân, yếu sau khi khỏi sốt, ỉa chảy và lỵ. ở Việt Nam, tại một số tỉnh miền Trung, nhân dân dùng cây này làm thuốc bổ cho phụ nữ sau khi đẻ xong bị ứ huyết, đau nhức tê thấp, kinh nguyệt bế tắc, nhọt bàm bàm ở hai bên cổ. Ngày dùng từ 10 đến 20g toàn cây dưới dạng thuốc sắc. Nếu tán bột thì mỗi lần uống 2 đến 4g bột. Ngày uống 2-3 lần. Dùng ngoài không kể liéu lượng, đắp lên những vết rắn cắn, nơi sưng tấy. Đơn thuốc có vị công cộng Rượu bổ kariyât: Rễ cây công cộng phơi khô tán nhỏ 180g, lô hội 30g, rượu 40° vừa đủ 1 lít. Ngày dùng 4 đến 16g rượu này trong những trường hợp yếu mệt, kém ăn. Thuốc hãm bổ: Toàn cây công cộng thái nhỏ 45g, vỏ cam và hạt mùi tán nhỏ 4g, nước sôi 300ml. Mỗi lần uống 45 đến 60g nước hãm này. Ngày uống hai hay ba lầnkhô. Có nơi chỉ dùng lá và cành mang lá. Thu hái gần như qúanh năm. Nhưng thường mùa hè dùng lá và phần trên mặt đất của cây, mùa thu đông dùng rễ và toàn cây
DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC