Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần C

Cốt toái bổ

09:04 22/04/2017

Còn gọi là bổ cốt toái, co tạng tó (Thái ở châu Quỳnh Nhai), co in tó (Thái ở Điện Biên), cây tổ phượng, cây tổ rồng, tổ điều, tắc kè đá. Tên khoa học Drynaria fortunei J. Sm. (Polypodium fortunei o. Kuntze). Thuộc họ Dương xỉ Polypodiaceae. Cốt toái bổ hay bổ cốt toái (Rhizoma Drynariae fortunei) là thân rễ phơi khô của cây bổ cốt toái. Tên bổ cốt toái vì người ta cho rằng vị này có tác dụng làm liền những xương dập gẫy. Tên co tạng tó vì tạng có nghĩa là đặt vào, tó là liền lại vì vị thuốc này đặt vào thì làm liền lại. Chữ in có nghĩa là gân, vì vị thuốc có tác dụng nối liền gân cốt.

A. Mô tả cây

Cây sống riêng trên các hốc đá, mọc trên những đám rêu, hoặc sống trên các thân cây lớn như cây đa, cây si. Cây sống lâu năm, có thân rễ dày mẫm, phủ nhiều vẩy màu vàng, bóng. Có hai loại lá: Lá bất thụ, không cuống màu nâu, hình trứng 5-8cm, rộng 3-6cm, phía cuống hình tim, có thùy, gán nổi rõ. Lá hữu thụ, màu xanh nhẵn, đơn xẻ thùy lòng chim, dài 25-40cm, cuống có dìa, cỏ thùy thuôn, tù ở đầu, dài 5- 6cm, có mạng, ổ tử nang nhiều, xếp thành một hàng ở mỗi bên gân chính, hình tròn, không có áo tử nang.

Ở Việt Nam có mấy loài cốt toái bổ đểu đuợc dùng làm thuốc như Drynaria fortunei J. Sm., Drynaria bonii Christ. Dlynaria fortunei có lá xẻ răng cưa, bào tử xếp đều đặn, còn Drynaria bonii có lá mép lượn sóng, bào tử xếp không đều.

Cốt toái bổ - tác dụng chữa bệnh của Cốt toái bổ

Cốt toái bổ - tác dụng chữa bệnh của Cốt toái bổ

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Mọc hoang ở khắp núi đá, trên cây hay dọc suối vùng rừng núi nước ta. Còn có mọc ở Lào, Trung Quốc (miền Trung và miển Nam). Việc thu hái có thể tiến hành quanh năm, vào những lúc ít công việc đồng áng, thường vào các tháng 4 đến tháng 8-9.

Hái về, rửa sạch đất cát, trừ bỏ các lá là dùng được. Nếu dùng khô thì sau khi rửa sạch đất cát, hoặc phơi khô ngay, hoặc phơi sau khi đồ cho chín để dễ bảo quản. Muốn hết lông, thường người ta đốt nhẹ cho cháy hết lông nhỏ phủ trên thân rễ.

C. Thành phần hoá học

Trong cốt toái bổ Drymria fortunei có hesperi- din (C A., 1970,73, 11382j) và 25-34,89% tinh bột (Trung Quốc kinh tế thực vật chí, 1961, 447).

E. Công dụng và liều dùng

Vị thuốc này mới thấy được dùng trong nhân dân. Theo tài liệu cổ, cốt toái bổ có vị đắng, tính ôn và không độc, vào hai kinh can và thận. Có khả năng bổ thận, trị đau xương, hành huyết phá huyết ứ, làm thuốc hoà hoãn, sát trùng đỡ đau. Dùng chữa dập xương, đau xương, bong gân, sai khớp, tai ù răng đau, thận hư. Những người âm hư, huyết hư đều không dùng được.

Dùng uống trong hay đắp ở ngoài. Liều dùng hàng ngày là 6 đến 12g. Dùng ngoài không có liều lượng. Có thể dùng dưới hình thức thuốc sắc hay ngârn rượu, hoặc giã đắp lên vết thương.

Năm 1963, tại Quân y viện 6 (Tây Bắc) có dùng cốt toái bổ điều trị có kết quả 4 trường hợp bong gân, tụ máu như sau:

Cốt toái bổ tươi hái về, bóc bỏ hết cả lông tơ và lá khô, sau đem rửa sạch, giã nhỏ. Rấp một ít nước nào, gói vào lá đã nướng cho mềm, rỗi đắp lên các vết đau. Những loại gãy xương hở không dùng lối này. Trong một ngày thay thuốc bó nhiều lần. Nếu không đủ cốt toái bổ, có thể chỉ lấy bã thuốc ra, rấp nước rồi lại băng lại. Thường chỉ sau 3 ngày đến 1 tuần là bệnh nhân đỡ và ra viện trong khi dùng các phương pháp khác kéo dài có khi hàng tháng mà không đỡ (Báo cáo của bác sĩ Lô Sỹ Toàn và hộ lý Lò Văn Sú Quán y viện 6, Tây Bắc).

Những đơn thuốc khác có cốt toái bổ

Cốt toái bổ, tán nhỏ, cho vào bồ dục lợn, nướng chín mà ăn để chữa các chứng ù tai, thận hư, răng đau.

Chú thích: Tại Việt Nam, ngoài vị Drynaria fotunei, người ta còn dùng thân rễ một loại cây khác gọi là Drynaria bonii Christ, cùng họ với cùng một công dụng.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC