Vị thuốc vần C
Cúc Sao
Aster trinervius Roxb.
Tên đồng nghĩa: Aster ageratoides Turcz var. trinervius H.M.
Tên khác: Cúc ba gân, sơn bạch cúc, nam tử uyển.
Họ: Cúc (Asteraceae).
Mô tả
Cây thảo nhỏ, sống lâu năm, cao 0,4 - 1m, có thể hơn. Thân và cành hình trụ, mọc đứng, phân nhánh ở ngọn, có khía và lông nhỏ. Lá mọc so le, có cuống ngắn, hình mác, dài 3 - 7 cm, rộng 2,5 - 5 cm, gốc thuôn, đầu có mũi nhọn, gân chính 3, mép có răng cưa. Lá gần ngọn nhỏ và không cuống.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá hay đầu ngọn thành ngù gồm nhiều đầu xếp thành 2 - 3 cái một, đầu có cuống dài 5 - 8 nun, lá bắc không đều, xếp thành 4-5 hàng, có mép mỏng; hoa cái ở vòng ngoài màu trắng hay tím; hoa lưỡng tính ở giữa có ống màu vàng, mào lông có nhiều sợi ngắn; tràng hình lưỡi có ống mảnh; tràng hình ống hơi loe ở đầu, có 5 thuỳ dài, nhị 5, không có tai; bầu thuôn dẹt có lông.
Quả bế, thuôn, dài 2,5 mm, có lông.
Mùa hoa quả: tháng 10 - 12.
Phân bố, sinh thái
Chi Aster L. gồm khá nhiều loài, phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới ấm và vùng cận nhiệt đới. Ở Việt Nam, chi này có 4 loài mọc tự nhiên và 1 - 2 loài khác được nhập trồng làm cảnh. Loài cúc sao thường gặp ở một số tỉnh miền núi, có độ cao từ 600m đến gần 2000 m (đèo Hoàng Liên Sơn - Sa Pa), thuộc các địa phương như: Cao Bằng (Nguyên Bình, Trùng Khánh); Hà Giang (Phó Bảng. Yên Minh. Ọuản Bạ); Lào Cai (Sa Pa); Sơn La (Quỳnh Nhai, Sông Mã. Mai Sơn. Yên Châu Mộc Châu); Điện Biên (Sa Dung - Điện Biên Đông); Lai Châu (Phong Thổ); Kon Tum (Ngọc Linh - Đăk Glei); Lâm Đồng (Đà Lạt)... Trên thế giới, cúc sao phân bố ở Ấn Độ, Mianma, Nepan Trung Quốc. và Nhật Bản.
Cúc sao là cây ưa sáng, ưa khí hậu ẩm mát. Cây thường mọc ở các hốc đá ven rừng, ven tà ly núi hoặc lẫn trong các loài cỏ khác ở bờ nương rẫy. Cây ra hoa quả nhiều hàng năm, vào khoảng tháng 9-11. Tái sinh tự nhiên tốt từ hạt và có khả năng mọc chồi từ các phần còn lại sau khi bị cắt. Ngoài công dụng làm thuốc, cúc sao có thể trồng làm cảnh vì hoa đẹp và cây ra nhiều hoa.
Cách trồng
Cúc sao là cây mọc hoang dại ở vùng núi cao, hiện chưa có ai trồng. Mặc dù vậy cũng có thể trồng được loại cây này để làm cảnh, vì ra hoa nhiều, màu tím hồng khá đẹp.
Cách trồng: hạt già thu hái được vào khoảng tháng 10 - 11, bảo quản nơi khô ráo và gieo vào mùa xuân. Nếu gieo dày, có thể tỉa bớt cây con đem cấy. Cúc sao là cây ưa ẩm nên cần thường xuyên tưới nưóc và có thể bón thêm phân. Cây sẽ ra hoa nhiều từ tháng 9 đến tháng 11.
Bộ phận dùng
Toàn cây, tươi hay phơi khô.
Thành phần hoá học
Phần trên mặt đất của cúc sao có các thành phần sau:
- Các diterpen glycosid: 16p hydroxy 17 acetoxy (-) Kauren - 19 oic acid - p - d. glucopyranosyl ester (I) (CA. 1994; 120, 265 775) và 16 p, 17 diliyđroxy (-) Kauren - 19 oic acid - p - d glucopyranosyi ester [Phytochemistry' vol.33 - issue J, 23 July 1993: p. 1181 - 1183],
- Các sesquiterpen lacton 8a acetoxy 1 - a hydroxy 3 a, 4 a epoxy - 5 a 7 a Họ 11 (13) guaidien 12,6 a olid
Các hợp chất arteglacin p, diversosid và 2 phenylestliyl beta - D - glucopyranosid, crotocorylifuran, oplopanon (Journal of Chinese chemical society 2007, 54, 1321 - 1324); (Pharmazie 2002 Aug. 57 (8) 567 - 9).
Ngoài ra còn các tetracychitriterpenoiđ, các flavor), saponin, đường và các ester (Brasilian Journal of pharmaceutical sciences vol 45. N.3. Jul/Sep. 2009).
Tác dụng dược lý
Kee đã tổng hợp một số nghiên cứu tác dụng dược lý ở Trung Ọuốc [Kee, 1999: 282], thấy toàn cây cúc sao có tác dụng chống ho, long đờm, giãn phế quản và kích thích vỏ thượng thận.
1. Tác dụng chống ho
Gây ho cho chuột nhắt trắng bằng cách phun sương dung dịch NH4OH 25,28% với một áp suất hơi hằng định. Xác định thời gian cần để chuột ho. Kết quả cho thấy ở lô chuột dùng cao cúc sao với liêu 0,2 g/kg và 0,4 g/kg uống hoặc tiêm trong phúc mạc, thời gian cần để chuột ho tăng 130% so với lô chứng không dùng thuốc [Tân y dược học tạp chí, 1975, 11: 38; theo TDTH, 1993, I: 2425].
2. Tác dụng long đờm
Tiêm dung dịch đỏ phenol vào trong phúc mạc cho chuột cống trắng. Sau một thời gian, dịch phế quản cũng có đỏ phenol. Nếu dịch phế quản tiết ra càng nhiều thì lượng đỏ phenol trong dịch càng nhiều. Định lượng đỏ phenol bằng phương pháp sắc kế. Cao cúc sao với liều uống 0,4 g/kg có tác dụng làm tăng dịch tiết khí phế quản so với lô đối chứng không dùng thuốc. Dịch tiết phế quản nhiều sẽ có tác dụng long đờm [Tài liệu đã dẫn].
3. Tác dụng giãn phế quản
Phun sương cho chuột lang bằng một dung dịch histamin với một áp suất hơi hằng định, thì khí quản chuột lang sẽ bị co thắt dẫn đến khó thở. rồi co giật và chết. Cao toàn cây cúc sao với liều uốns 0,5 g/kg làm cho thời gian từ khi bắt đầu phun sương đến khi có triệu chứng tiền co giật kéo dài hơn so với chuột đối chứng không dùng cúc sao. Đó là do cúc sao có tác dụng chống co thắt phế quản [Tài liệu đã dẫn].
4. Tác dụng trên vỏ thượng thận
Nước sắc toàn cây cúc sao cho chuột cống trắng uống với liều mỗi ngày tính ra dược liệu khô là 10 g/kg, liền trong 3 ngày, thấy tuyến thượng thận phát triển, khối lượng tuyến thượng thận tăng, công năng của mô tuyến thượng thận tăng làm tăng sức đề kháng của cơ thể [Trung thảo dược học, quyển 2, Giang tô KHKT xuất bản xã, 1980: 1138; theo TDTH, 1993,1: 2426].
Tài liệu Ấn Độ cũng ghi, cúc sao có tác dụng hạ sốt, long đờm, chống ho [Rastogi et al., 1998, V: 108; CA, 1994, 120, 265 758 f].
Tính vị, công năng
Cúc sao vị đắng, hơi cay, tính bình, không độc; có công năng chỉ khái, hoá đàm, binh suyễn, thông tiểu, tán huyết, dưỡng huyết. Sách "Triết giang dân gian thường dụng thảo dược" ghi: cúc sao vị đắng, cay, tính mát; có công năng chỉ khái, hoá đàm, thanh nhiệt, tiêu độc [TDTH, 1993, I: 2425],
Công dụng
Cúc sao được dùng chữa các bệnh về phổi như ho, ho nhiều đờm, viêm khí phế quản cấp và mạn tính, ho gà. Còn dùng chữa sốt rét, đau bụng cấp. Do có tác dụng cầm máu, cúc sao được dùng chữa chảy máu mũi, thổ huyết, lỵ ra máu, đái ra máu. Nhân dân ở huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang dùng cúc sao để chữa đầy hơi. Mỗi ngày dùng 30 - 40g sắc nước uống, chia làm 2 lần.
Để chữa trẻ em bị đơn đỏ chạy khắp người ,người lớn bị đơn độc, sưng tay cơ (như bắp đùi bắp chân, bắp tay) nóng và đau nhức, lấy toàn cây cúc sao, nấu thành cao, mỗi lần uống tương đương lOg dược liệu khô, ngày 2-3 lần.
Ở ta, chưa thấy có vị tử uyển (Aster tcìtaricns L.f.), thường dùng rễ cúc sao thay thế đê chữa các bệnh về phổi. Dùng ngoài, lấy lá và ngọn cành, rửa sạch, giã nát, đắp lên chỗ rắn cắn, trĩ. Lá và ngọn non có thể được dùng để ăn thay rau.
Ở Trung Quốc, toàn cây cúc sao còn được dùng để điều trị viêm phế quản mạn tính. Thuốc được chế thành viên, mỗi viên có 0,5g cao khô chiết bằng nước. Mỗi lần uống 5 viên, ngày 3 lần.