Vị thuốc vần Đ
Đại Bi
Blumea balsamifera (L.) DC. Blutnea grandis DC.
Tên khác: Từ bi xanh, đại ngải, mai hoa não, băng phiến ngải, bơ nạt, phặc phà (Tày), co nát (Thái)
Tên nước ngoài: Ngai-camphor (Anh), camphrée (Pháp).
Họ: Cúc (Asteraceae).
Mô tả
Cây nhỏ, cao l-2m. Thân có khía rãnh, phân cành ở ngọn. Lá mọc so le, hình bầu dục-mũi mác, dài 15- 20cm, rộng 5-8cm, gốc bị xẻ quá sâu thành nhiều mảnh rời nhau, đầu thuôn nhọn, mép khía răng, gân lá chằng chịt thành mạng lưới rất rõ ở hai mặt lá, mặt trên xanh lục sẫm, mặt dưới trắng nhạt.
Cụm hoa gồm nhiều đầu màu vàng, họp thành ngù ở kẽ lá và đầu cành; đầu có đưòng kính 8-10mm, có cuống ngắn; lá bắc xếp thành nhiều hàng, không đều nhau; trong đầu có nhiều dãy hoa cái ở xung quanh, phần giữa là hoa lưỡng tính, mào lông có màu gỉ sắt; tràng hoa cái hình ống có 3 răng; tràng hoa lưỡng tính gần hình trụ, 5 răng, 5 nhị; bầu hình trụ, hơi có lông.
Quả bế, có 5 cạnh và chùm lông ở đỉnh. Toàn cây có lông trắng mềm và mùi thơm như long não.
Mùa hoa quả : tháng 3-5.
Đại bi và tác dụng chữa bệnh của nó
Phân bố, sinh thái
Chi Dlumea DC. có khoảng 80 loài trên thế giới, phân bố ở vùng nhiệt đới châu Á, châu Phi và châu Đại Dương. Việt Nam có 25-30 loài (Nguyễn Tiến Bân, 1997), trong đó, có cây đại bi. Loài này còn phân bố khá rộng rãi ở nhiều nước vùng Nam và Đông Nam Á, bao gồm : Ân Độ, Malaysia, Thái Lan, Campuchia, Lào, Nam Trung Quốc và đảo Hải Nam.
Ở Việt Nam, đại bi là cây phân bố rộng ở hầu hết các tỉnh miền núi thấp (dưới l000m), trung du và cả ở đồng bằng và nhiều đảo lớn. Cây ưa sáng, thường sống 1-2 năm, mọc trên các vùng nương rẫy cũ, đồi cây bụi hoặc ven rừng. Cây mọc từ hạt thường có hoa ngay trong năm đầu tiên. Mùa đông rụng lá hoặc có thể tàn lụi. Hạt nhiều, có túm lông ở đỉnh, phát tán xa nhờ gió.
Bộ phận dùng
- Lá phiến to dày, nhiều lông có mùi thơm hắc, thu hái quanh năm nhưng tốt nhất là mùa hè. Rửa sạch phơi âm can.
- Mai hoa băng phiến (băng phiến đại bi, mai hoa não, mai hoa phiến, ngải phiến) thu được khi chưng cất lá rồi cho thăng hoa. Búp và lá non chứa nhiều mai hoa băng phiến hơn các bộ phận khác. Mai hoa băng phiến ở dạng tinh thể hình phiến trong suốt hoặc nửa trong suốt giống như phiến cánh hoa mai, có mùi thơm nhẹ dễ chịu, vị cay mát, y học hiện đại gọi hoạt chất nàv là borneol.
Có thể cắt mai hoa băng phiến theo phương pháp thủ công như sau :
Dùng nồi chõ trên để một thau nước lạnh, cho lá cành đại bi đã băm nhỏ vào nồi thêm nước đến ngập lá, trát kín chõ và chậu thau. Đun nhỏ lửa, 3-4 giờ sau, mai hoa băng phiến thăng hoa bám vào đáy chậu, lấy ra cạo bột băng phiến, ép cho kiệt hết tinh dầu rồi tinh chế lại bằng cách trộn bột băng phiến thô (100 phần) với bột than củi (5 phẩn) vôi bột (3 phần), cho vào nồi gang, đặt lên nồi một thau nước lạnh, trát kín đun nhỏ lửa rồi lấy băng phiến như trên. Hiệu suất mai hoa băng phiến trong lá tươi là 0,3-0,5% (Đỗ Tất Lợi. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, 1999, trang 606).
Thành phần hóa học
Lá chứa 0,2-1,88% tinh dầu và borneol. Thành phần chính của tinh dầu là d borneol, 1 camphor cineol, limonen, acid palmitic, acid mvristic còn chứa các sesquiterpen alcol. Có tác giả đã phân lập từ lá đại bi các blumea lacton A, B, c đều là các sesquiterpen lacton (Từ điển bách khoa dược học 1999-204).
Đại bi ở Trung Quốc chứa chủ yếu là borneol ở Myanma chứa 1-9% tinh dầu trong đó 75% camphor và 25% borneol (The Wealth of India 1948, vol 1, trang 197).
Theo tài liệu nước ngoài, long não hữu tuyền được kết tinh từ nhựa và tinh dầu đại bi.
Nhựa và tinh dầu đại bị còn chứa các chất triterpen, humulen, ß elemen và caryophyllen. Cho đến nay, người ta đã phát hiện từ nhựa đại bi 18 chất triterpen, trong đó, 10 chất triterpen 5 vòng như erythrodiol, acid hedragonic, acid maslinic, hederagenin, acid ajunolic, acid asiatic, acid hvdroxvasiatic, acid 11 oxoasiatic, alphitol... Ngoài ra, có 5 loại triterpen 4 vòng như đamarendiol II, dipterocarpol, đryobalanon, acid dryobalanonolic, và ocortiuol II... (Trung dược từ hải tập I 2231). Các chất 2R, 3R dihvdroquercetin, 2R, 3R, dihydroquerceiin 4'7' dimethvl ether, cryptomeridol, blumealacton A(3) B(2) C(3) các chất có tác dụng chống dị ứng như acid rosmarinic, astragalin, nicotiuflorin bauerol... (Trung dược từ hải tập I 1387) Đại bi còn chứa các flavonoid như 3.5.3 - trihvclroxy - 7 - 4 - dimethoxy flavon 3.5.3.4 tetrahydroxv 7. methoxy flavon(CA. 121,1994 14182x).
Từ dịch chiết clorofonn phần trên mắt đất của đại bi, còn phát hiện chất (2R, 3R)-7-5' dimethoxy-3-5-2' trihvdroxy flavanol (CA 118, 1993, 19268 v).
Tác dụng dược lý
Dịch chiết lá đại bi gây hạ huyết áp trên súc vật thí nghiệm, làm giãn mạch ngoại vi và ức chế hệ thần kinh giao cảm. Cũng trên súc vật thí nghiệm, nước sắc lá đại bi được tiêm tĩnh mạch làm xuất hiện huyết áp hạ do tim co bóp yếu và giãn mạch ngoại vi, hoạt dộng hô hấp của súc vật thí nghiệm được tăng cường có thể là do trung khu hô hấp bị kích thích, đồng thời sức co bóp và trương lực của ruột và tử cung đều giảm.
Chất flavonoid blumeatin (5,3',5' trihyđroxy 7- methoxy-dihydro -flavon) tiêm xoang bụng cho chuột cống trắng đã gây nhiễm độc bằng CC14, có tác dụng ức chế sự gia tăng của các men alanin amino. transferase trong huyết thanh và triglvcerid trong gan; những tổn thương về tổ chức học của gan ở lô chuột dùng blumeatin không nghiêm trọng bằng lô chuột đối chứng. Trên chuột nhắt trắng gây ngộ độc bằng thioacetamid, dùng blumeatin tiêm xoang bụng cũng có tác dụng ức chế sự gia tăng các men alanin aminotransferase trong huyết thanh và triglycerid trong gan. Các kết quả trên chứng tỏ blumeatin có tác dụng bảo vệ gan đối với nhiễm độc do CC14 và thiocetamiđ gâv nên. Ba chất sesquiterpen lacton chiết tách từ đại bi (Blumealacton A,B,C) đều có tác dụng chống ung thư đối với tế bào sarcom yoshida trên môi trường nuôi cấy. Cao chiết từ đại bị có tác dụng làm giảm khả năng gây đột biến của mitomycin c, dimethylnitrosamin và tetracyclin trên chuột nhắt trắng. Ngoài ra, đại bi còn có tác dụng kháng histamin, kháng nấm. Thành phần có tác dụng kháng histamin gồm có: acid rosmarinic, astragalin, nicotinflorin và bauerenol. Cao chiết bằng ethanol từ đại bi có tác dụng đối với nấm Epidermophyton floccosum với nồng độ ức chế tối thiểu là dưới 10mg dược liệu/ml. Cao chiết bằng nước từ đại bi có tác dụng lợi tiểu như cà phê, chè. Đại bi còn có tác dụng diệt côn trùng, hoạt chất diệt côn trùng chưa được xác định.
Tính vị, công năng
Đại bi có vị cay, đắng, tính ôn, có tác dụng khư phong, trừ thấp,hoạt huyết, tiêu ứ, sát trùng.
Mai hoa băng phiến có vị cay, đắng, tính hơi lạnh, có tác dụng thông khiếu, tán uất hoả, chỉ thống, tiêu thũng, minh mục, cường tim.
Công dụng
Lá đại bi được dùng làm thuốc chữa cảm sốt, cúm, làm ra mồ hôi dưới dạng thuốc xông. Dùng lá phối hợp với một số dược liệu cổ tinh dầu như lá bưởi, lá chanh, lá sả mỗi thứ một nắm. Tất cả cho vào nồi nước đun sôi rồi xông. Khi xông cần ngồi nơi kín gió. Dùng chăn trùm kín cả người và nồi nước xông, hơi nước có các chất thơm bốc lên làm ra mồ hôi. Xông xong dùng khăn khô lau hết mồ hôi, bệnh nhân cảm thấy dễ chịu ngay.
Nước sắc lá đại bị uống chữa đầy bụng, ăn uống khó tiêu, ho nhiều đờm. Ngày đùng 20-30g lá tươi. Dùng ngoài, lá đại bi nấu nước ngâm rửa, hoặc lá tươi giã nát đắp tại chỗ chữa lở loét, vết thương sưng đau. Lá đại bi phối hợp với lá cây dâm hôi (lượng bằng nhau), rửa sạch, giã nát, lấy nước bôi chữa mụn ghẻ. Ở Trung Quốc, lá đại bi được dùng làm thuốc kiện vị chữa đầy hơi, diệt giun sán, đắp tại chồ chữa vết loét. Ở Ấn Độ, lá đại bi chữa mất ngủ, trạng thái tâm thần bị kích thích. Ở Philippin, lá được dùng làm thuốc lợi tiểu chữa các bệnh sỏi thận, phù nề, dưới dạng viên nén 250mg bột. Người lớn dùng 1-2 viên mỗi lần cứ 6 giờ uống một lần. Ở Thái Lan, lá thái nhỏ phơi khô cuộn thành điếu thuốc để hút chữa viêm xoang.
Mai hoa băng phiến được dùng từ lâu trong y học cổ truyền, chữa trúng phong cấm khẩu, đau bụng, đau ngực, ho lâu ngày, đau mắt, đau họng, liều dùng hàng ngày -0,l-0,2g chia làm nhiều lần uống trong ngày dưới dạng thuốc bột, hoặc phối hợp với các vị thuốc khác dưới dạng hoàn tán. Dùng ngoài, mai hoa băng phiến và phèn phi với lượng bằng nhau, tán bột rắc vào chỗ đau chữa bệnh thối loét chân răng. Mai hoa băng phiến pha trong cồn dùng xoa bóp chữa thấp khớp, chấn thương tụ máu. Từ borneol, các nhà hoá học Đức đã sản xuất một loại thuốc chống kiến, thuốc này không độc, chỉ làm mất những mùi đánh dấu quan trọng của kiến và làm cho chúng mất phương hướng mà bỏ đi nơi khác.
Chú ý : Không được uống mai hoa băng phiến với ruợu vì như vậy có thể dẫn tới bị ngộ độc.
Bài thuốc có đại bi
1. Chữa viêm họng mạn tính, viêm amidan:
Mai hoa băng phiến lg, phèn chua phi 2,5g, hoàng bá đốt thành than 2g, đăng tâm thảo đốt thành than 3g. Tất cả tán thành bột, mỗi lần dùng 3-4g thổi vào họng.
2. Chữa trúng phong cấm khẩu, hôn mê: Mai hoa băng phiến xát mạnh vào chân răng.
3. Chữa ho: (Kinh nghiệm của Hợp tác xã thuốc dân tộc Hợp Châu - Chùa Bộc)
Lá đại bi 200g, rỗ cà gai leo 100g, rễ thuỷ xương bồ l00g, củ sả l00g, lá chanh 50g, trần bì 50g. Tất cả phơi khô thái nhỏ, nấu với nước 2 lần để được 700ml dung dịch. Lọc rồi thêm 300ml sirô để được một lít cao. Ngàv uống 40ml chia làm 2 lần.
4. Chữa viêm khớp thấp: Đại bi với lá thầu dầu và thạch xương bồ, nấu nước đặc, ngâm rửa.