Vị thuốc vần Đ
Đài hái
Còn gọi là du qua, dây mỡ lợn, dây hái, then hái, mướp rừng, dây sén, mak khing (Lào), Kigarasu-uri (Nhật). Tên khoa học Hodgsonia macrocarpa (Blume) Cogn. (Trichosanthes macrocarpa Blume). Thuộc họ Bí Cucurbitaceae.
A. Mô tả cây
Đài hái là một loại dây leo, mọc khỏe, thân nhẵn, có thể dài hơn 30m, Lá hình tim, phiên chia 3 hay 5 thùy, và rộng chừng 15-25cm, mật trên màu xanh lục, mật dưới màu nhạt hơn, dai, cứng nhẵn; thùy thuôn dài đầu nhọn. Khi còn non lá có thể dài không chia thùy hay chỉ có 2 thùy. Tua cuốn to khỏe và quăn xoắn. Hoa đực mọc thành chùm với dạng ngù. Hoa cái đơn độc, ở kẽ lá. Quả hình cầu, to bằng đầu người, đường kính có thể đạt tới 20cm, trên có chừng 10-12 khía trông không rõ, cùi trắng. Hạt từ 6 đến 12, rất to, dài tới 8 cm, rộng tới 5cm, hình trứng, dẹt, có lá mầm rất phát triển, một mặt phẳng một mặt khum.
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây đài hái là một cây rất đẹp. Hiện nay mọc hoang leo lên trên các cây to khác trong rừng, phía trên chia thành nhiều cành mọc sen kẽ nhau và phủ trên cây tựa những lá màu xanh thảm, trông rất đặc biệt. Việc thí nghiệm trồng ở đồng bằng chưa phát triển được. Có khi trồng cho quả, có khi chậm ra quả hay không thấy ra quả. Chưa rõ nguyên nhân. Người ta nói có cây đực, cây cái. Cần theo dõi kiểm tra xác định lại. Thường được thu hoạch tại các tỉnh Hà Tuyên, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Thái, Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh và các tỉnh miền núi nói chung. Có mọc cả ở một số tỉnh miền nam Trung Quốc, Ấn Độ, Indônêxya, MaLaíxia, Nhật Bản. Do hạt nhẹ, nổi trên mặt nước, cho nên vào mùa mưa hạt cây trôi theo dòng suối và sông ngòi ra tận ngoài bờ biển. Mùa thu hái qủa vào các tháng 11-12 đến tháng 1-2 năm sau.
C. Thành phần hóa học
Hạt chứa rất nhiều dầu, tỷ lệ có thể đạt tới 60-65%. Dầu hơi đặc, màu vàng nhạt, không mùi, không vị, gần giống mỡ lợn, do đó có nơi còn gọi cây này là cây mỡ lợn. Để lắng, dầu sẽ tách thành hai lớp, lớp trên chứa chừng 20% panmitin, lớp dưới gổm chủ yếu là chất olein. Hạt sống cổ vị đắng và có thể chứa một chất đắng, có thể là một ancaloit, hoặc một glucozit, hoặc một chắt độc khác. Tuy nhiên hạt không thấy có độc tính, vì đồng bào những vùng có cây này vẫn dùng nướng ăn hay giã với muối ãn như ta ăn muối lạc.
D. Công dụng và liều dùng
Tại Việt Nam, qủa và hạt đài hái ít thấy được dùng làm thuốc. Đồng bào những nơi có cây chỉ lấy hạt để ép làm dầu để ăn thay mỡ lợn, hay để thắp đèn. Có khi nướng chín mà ãn. Tại Inđônêxya (đảo Boócnêô), người ta đùng dầu đài hái để xoa bụng những người phụ nữ mới ở cữ, đồng thời cho phụ nữ uống nước sắc gừng. Người ta còn trộn tro lá địa liền với dầu đài hái và dầu dừa để bôi vào vú phụ nữ bị sưng. Lá đài hái còn dùng sắc hay đốt lấy khói xông chữa bệnh loét mũi. Thân đài hái ép lấy nước cũng dùng nhỏ mũi để chữa bệnh loét mũi.
Có thể bạn quan tâm:
>> Đông y hỗ trợ điều trị hiệu quả và phòng tái phát bệnh viêm phần phụ