Vị thuốc vần Đ
Đu Đủ Rừng
Trevesia palmata (Roxb. ex Lindl.) Visan.
Tên đồng nghĩa: Gastoniapalmata Roxb. ex Lindl. Treve.sia cheirantha (Clarke) Ridl.
Tên khác: Thông thảo gai, thầu dầu núi, nhật phiến, thôi hoang.
Họ: Nhân sâm (Araliaceae).
Mô tả
Cây nhỏ, cao 6 - 8m hoặc hơn. Thân hình trụ, phân nhánh, ruột xốp, cành có gai ngắn. Lá mọc so le, xẻ sâu thành 5-9 thuỳ chân vịt, các thuỳ lại chia thành những thuỳ nhỏ không đều, đầu tròn, có gân nổi rõ; cuống lá dài có gai. Lá non có lông mềm, lá già nhẵn.
Cụm hoa mọc ở kẽ những lá gần ngọn thành tán, có cuống dài, tụ họp thành chùy; hoa màu trắng.
Quả có khía, đầu bằng, có núm tầy và nhọn; hạt dẹt.
Mùa hoa quả: tháng 5-9.
Phân bố, sinh thái
Chi Trevesia Visan. phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á. Ở Việt Nam, chi này có 5 loài và 1 thứ (var.), trong đó có tới 3 loài và 1 thứ (var.) mới đối với thế giới do các nhà khoa học Liên Xô công bố năm 1984. Loài đu đủ rừng kể trên được công bố từ năm 1825, đến năm 1842 được chính thức xếp vào chi Trevesia. Loài này có phân bố ở Ẩn Độ, Bănglađet và Trung Quốc, ở Việt Nam, đu đủ rừng phân bố rải rác ở các tỉnh miền núi như: Sơn La (Mộc Châu, Thuận Châu); Điện Biên (Điện Biên Đông); Lào Cai (Bảo Thắng); Hà Giang (Đồng Văn. Phó Bảng, Yên Ninh: Du Già, Quản Bạ: Cán Tỷ); Tuyên Quang (Nà Hang); Lạng Sơn (Hữu Lũng); Hà Nội (Ba Vì); Quảng Trị; Kon Turn (vùng núi Ngọc Linh); Gia Lai (Chư Pản, Mang Yang); Đắk Nông; Lâm Đồng (Lang Bian, Tà Nung, Đơn Dương)...
Đu đủ rừng là cây ưa ẩm. chịu bóng và cũng ưa sáng. Cây thường mọc dọc theo các .bờ khe suối, ở cửa rừng, ven rừng, trong các thung lũng... thuộc loại hình rừng kín thường xanh ẩm trên núi đá vôi hoặc trên núi đất có nguồn gốc từ một vài loại đá mẹ khác nhau. Độ cao phân bố thường từ 400m trở lên. Cây sinh trường gần như quanh năm và ra hoa quả 1 - 2 năm/lần. Tái sinh tự nhiên từ hạt tốt và trong trường hợp bị chặt ngang thân, phần còn lại có thể tái sinh tiếp thành cây chồi.
Cách trồng
Đu đủ rừng hiện mới trồng làm mẫu tại các vườn thuốc và vườn thực vật. Đất trồng ẩm. thoát nước và không bị ngập úng. Nơi trồng khi cây còn nhỏ cần có tán che, khi lớn cần điều tiết giảm tán che hoặc có thể bị che bóng một phần trong ngày.
Mặc dù chưa có những nghiên cứu cụ thể, nhưng chắc chắn có thể nhân giống bằng hạt. Cây con ở vượn ươm sau 1 năm tuổi đánh ra trồng. Thời vụ trồng vào vụ đông hay vụ xuân. Cách trồng: đào hố vừa đù để lấp kín toàn bộ gốc và bộ rễ. Cự ly trồng 3 - 4m/cây. Khi trồng cần bón lót phân chuồng mục. Thường xuyên tưới nước cho đất luôn ầm. Đu đủ rừng là cây mọc nhanh, chưa thấy sâu bệnh.
Bộ phận dùng
Lõi thân.
Tác dụng dược lý
1. Tác dụng chống tăng sinh tế bào
Trên mô hình thử nghiệm in vitro ba dòng tế bào nuôi cấy liên tục, đã xác định được phân đoạn saponin thô của đu đủ rừng có tác dụng chống tăng sinh (antiproliferative). Tinh chế bằng sắc ký đã thu được 6 saponin bisdesmosidic và 2 saponin triterpenoid. Cả 8 saponin và 6 prosaponin (2a - 7a) có được nhờ thủy phân bằng kiềm các saponin tương ứng cũng đều có tác dụng chống tăng sinh (De Tommasi et al., 2000).
2. Tác dụng lợi niệu
Thử nghiệm được tiến hành ở chuột cống trắng đực 100 - 150g. Chuột được để nhịn đói qua đêm. Sáng hôm sau cho chuột uống dung dịch NaCI 0,9% với thể tích 5ml/100g và dùng cao, lô đối chứng dùng urea. Sau đó, cho mỗi chuột vào một lồng chuyển hoá để hứng nước tiểu trong 4 giờ. Kết quả, ở lô dùng thuốc, lượng nước tiểu bài xuất nhiều hơn ở lô đối chứng [Bhakuni, 1969: 250]. Cao được chế tạo ở mục xác định độc tính cấp dưới đây.
3. Độc tính cấp
Độc tính cấp của cao đu đủ rừng được xác định ở chuột nhắt trắng, dùng đường tiêm phúc mạc. Kết quả thu được LD50 = 93 nig/kg. Cao khô đu đủ rừng được chế bằng cách dùng toàn cây đu đủ rừng, chặt nhỏ, phơi khô, tán thành bột thô, rôi chiết bàng ethanol 50%. Sau đó, cô dưới áp suât giảm đến thể chất cao khô [Bliakuni, 1969, II: 512].
Tính vị, công năng .
Đu đủ rừng có vị hơi đắng, tính bình; có công năng hoá ứ, chỉ thống, bổ, cường tráng [TDTH, 1996, II: 717]; lõi thân có công năng thông tiêu, tiêu phù, lợi sữa.
Công dụng
Lõi thân cây đu đủ rừng được dùng ở ta như vị thông thảo là lõi thân cây thông thảo Tetrapanax papyrilera (Hook.) Kocli. và trên thị trường Việt Nam cũng gọi luôn là thông thảo, được dùng chữa phù thũng, đái dắt, tê thấp, làm thuốc mát cho cơ thể, làm phổi bớt nóng. Cũng được dùng như thuốc bổ. Liều dùng hàng ngày 20 - 30g, sắc nước uống. Lá được dùng nấu nước xông để chữa tê bì. Dùng ngoài, lấy lá, rửa sạch, giã nát, đáp để bó gãy xương.
Ở Trung Quốc, người ta dùng lá chữa đòn ngã tổn thương hoặc dao chém thương tích, đau thắt lưng, tử chi bất lực. Ngày dùng lOg sắc nước uống [TDTH, 1996. II: 717],