Vị thuốc vần D
Dưa Chuột
Còn gọi là dưa leo, tra sac (Campuchia}, cucuber (Anh), concombre (Pháp), hồ qua (Trung Quốc).
Tên khoa học Cucumis sativus L.
Thuộc họ Bí Cucurbitaceae.
A. Mô tả cây
Cây mọc bò, toàn thân có lông. Thân có nhiều cành, có góc. Lá mang cuống, phiến có từ 3-5 thùy hình hơi ba cạnh, mép có lông đứng. Hoa đơn tính, màu vàng, mọc 2-3 ở nách lá. Quả hình thuôn dài, hình trụ hay hơi ba cạnh, nhẵn hoặc hơi có bướu nhỏ, có thể dài 10-36cm. Màu lục hay lục vàng nhạt, vàng hay vàng nâu. Hạt nhiểu, hình trứng, trắng, dai, bóng.
Dưa chuột và tác dụng chữa bệnh của nó
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Trồng ở khắp các tỉnh trong nước ta. Còn thấy trồng ờ nhiều nước nhiệt đới cũng như ôn đới. Lấy quả dùng làm rau ăn hay chế mỹ phẩm. Có thể hái quả ngay từ lúc quả còn xanh non (comichon) dùng ngâm dấm hay đợi thật lớn và chín vàng.
C. Thành phần hóa học
Dưa chuột chứa tới 95-97% nước, 0,8% protit, 3% gluxit, 0,7% xenluloz, 0,50% tro, trong đó 23mg% can xi, 27mg% p, lmg% Fe. Dưa chuột còn chứa vitamin A (caroten) với tỷ lệ 0,30mg%, vitamin BI 0,03mg%, B2 với tỷ lệ 0,04mg%, vitamin pp 0,1 mg% và vitamin c 5mg%, (Bảng thành phần hóa học thức ăn Việt nam-NXB y học, 1972).
Sách “Bí mật và đức tính của cây thuốc” (Se- crets et vertus des plantes médicinales-Selection du Readerl's Digest, 1977) còn ghi thêm: “ngoài vitamin A và c, trong dưa chuột còn chứa một lượng quan trọng sắt, mangan, iot và thiamin”.
Vỏ dưa chuột có vị đắng do chứa colocynthine.
Hạt dưa chuột chứa một ancaloit gọi là hy- poxanthine có tác dụng trừ giun.
D. Công dụng và liều dùng
Theo tài liệu cổ (Bản thảo cương mục-Nam dược thần hiệu) Dưa chuột có tên hổ qua hay hoàng qua với những tính chất sau đây:
Quả dưa chuột có vị ngọt, tính hàn (lạnh) hơi có độc không nên dùng nhiều có tác dụng thanh nhiệt, giải phiền, lợi thủy đạo (tiêu nước).
Lá dưa chuột vị đắng, tính bình, hơi có độc, giã nát vắt lấy nước uổng vào nôn ra.
Dưa chuột chủ yếu được trồng để làm thức ăn, làm thuốc ở Ấn Độ và Ai Cập ít nhất từ trên 4.000 năm. Việc sử dụng này được lan truyền từ những nước ấy đến các dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ và Latinh.
Về mật thức ăn, những thầy thuốc dinh dưỡng cho rằng dưa chuột ăn sống khó tiêu và những người có dạ dày dỗ mẫn cảm khó chấp nhận. Nhưng dưa chuột là một món ăn mát và lợi tiểu (phù hợp với kinh nghiệm cổ).
Đặc biệt người ta dùng dưa chuột trong mỹ phẩm và chữa bệnh ngoài da từ rất lâu đời: cắt dưa chuột thành từng lát mỏng đắt lên da mặt chữa những vết nhãn, da xù xì, những vết. tận nhang, một số vùng ở nước ta nhân dân dùng những quả dưa chuột non có thêm đường chữa lỵ, nhiệt và ỉa chảy (kinh nghiệm này có ghi trong Bản thảo cương mục từ thế kỷ 16).
Một số đơn thuốc có dưa chuột dùng trong nhán dân
1. Cổ họng sưng đau: Chọn một quả dưa chuột già, bỏ hết hột. Thêm mang tiêu vào cho đầy ruột quả, trộn đều phơi trong mát cho khô. Ngậm từng ít một (theo Y lâm tập yếu).
2. Bụng chướng, chân tay phù nề: Lấy một quả dưa chuột già chín, loại bỏ hạt, thêm một ít dấm chua, nấu chín nhừ. Cho ăn lúc bụng đói. Bệnh nhân sẽ đái nhiều và hết phù nề (Thiên kim phương-BTCM).
3. Chữa nẻ môi: Dùng miếng dưa chuột tươi sát lên nơi môi bị nẻ (Secrets et vertus des plantes médicinales, 1977-SEVPM).
4. Da bị mẩn đỏ: Dùng nước ép dưa chuột bôi lên nhiều lần trong ngày (SEVPM-1977).
5. Chữa phỏng lừa chưa phồng da: 3 quả dưa chuột hái vào ngày 5 tháng 5 âm lịch (mùa hè) bỏ vào bình chát kín. Để ngoài hiên. Khi bị bỏng, lấy nước trong bình dưa chuột mà bôi lên. (Nam dược thần hiệu).