Vị thuốc vần D
Dưa Gang Tây
Passiflora quadrangularis L.
Tên nước ngoài: True granadilla, giant granadilla (Anh); barbadine (Pháp).
Họ: Lạc tiên (Passiíloraceae).
Mô tả
Dây leo bằng tua cuốn, dài hàng mét. Thân, cành vuông, mềm, mép có cánh. Lá mọc so le, chia 3-5 thùy, thùy giữa lớn hơn, gốc hình tim, đầu nhọn, mép khía răng và lượn sóng, mặt trên nhẩn bóng, gân lá hình chân vịt, cuống lá dài có đôi tuyến mật; lá kèm hình sợi.
Hoa mọc riêng lẻ ở kẽ lá, màu tím, có cuống dài; không có tổng bao; dài 5 răng hẹp nhọn; tràng 5 cánh rời nhau, xếp xen kẽ với lá đài; tràng phụ có 2 vòng, vòng ngoài gồm những phiến xoăn hình sợi màu trắng tím xen kẽ nhau, vòng trong ngắn hơn; cuống nhị nhụy thành cột mang 5 nhị ngắn và bầu cao hơn; bầu 1 ô, nhiều noãn.
Quả mọng, hình trứng hoặc hình tròn, khi chín màu vàng; hạt có áo và vỏ cứng.
Mùa hoa: tháng 4-7; mùa quả: tháng 8-11.
Dưa gang tây và tác dụng chữa bệnh của nó
Phân bố, sinh thái
Chi Passiflora L. có khoảng 400 loài trên thế giới, trong đó có gần 60 loài có quả ăn được. Ở Việt Nam, chi này có khoảng hơn 10 loài. Dưa gang tây là một trong số 3-4 loài đã được nhập trồng lấy quả ăn hoặc làm cảnh.
Dưa gang tây có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ. Từ thế kỷ 18 và 19, cây đã được du nhập sang nhiều vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới khác của thế giới. Dưa gang tây có lẽ cũng được nhập vào Việt Nam từ lâu. Cây được trồng rải rác trong nhân dân ở khắp các tỉnh miền Bắc cũng như miền Nam. Dưa gang tây là cây ưa ẩm, ưa sáng. Cây trồng phải có giá thể leo (giàn) mới có nhiều hoa quả. Cây thích nghi với điều kiện nhiệt đới nóng và ẩm hoặc hơi khô. Ở Việt Nam, dưa gang tây không trồng được ở vùng núi cao như SaPa do có mùa đông lạnh kéo dài. Dưa gang tây ra hoa quả nhiều,trồng được bằng hạt và bằng các đoạn thân.
Bộ phận dùng
Rễ thu hái quanh năm, dùng tươi. Quả thu hái khi chín.
Thành phần hóa học
Quả dưa gang tây có chứa chất có tác dụng gây ngủ nếu ăn nhiều. Rễ được coi là độc. Toàn cây chứa một alcaloid là passiflorin, chất này giống chất harman trong Passiflora incarnata (CA. 1956, 50, 14183). Lá chứa HCN.
Tác dụng dược lý
Theo tài liệu nước ngoài, rễ dưa gang với liều nhỏ có tác dụng diệt giun sán, nhưng với liều cao lại gây độc. Rễ tươi có tác dụng gây ngủ, gây mê mạnh và có độc. Cho chó khỏe mạnh uống nước sắc rễ sẽ bị tử vong trong vòng 40 phút, tim và não chó bị nhồi máu. Độc tính của rễ dưa gang tây cso thể do alcaloid passiflorin. Lá dưa gang tây cũng có độc.
Công dụng
Cây dưa gang tây được nhập trồng trong các vườn gia đình ở các tỉnh miền Trung và các tỉnh phía nam để làm cây cảnh và lấy quả ăn. Quả chưa chín được ăn thay rau, dùng nấu canh như đu đủ (nên người ta còn gọi là đu đủ leo). Thịt quả hơi chua, có mùi dễ chịu thêm đường ăn tráng miệng rất ngon và bổ.
Ở Mianma, rễ dưa gang tây được dùng làm thuốc diệt giun sán.