Vị thuốc vần D
Dưa Hấu
Dưa Hấu Còn gọi là dưa đỏ tây qua, thủy qua, hàn qua, hạ qua.
Tên khoa học Citrvllus vuigaris Schrad.
Thuộc họ Bầu bí Cucurbitaceae.
A. Mô tả cây
Cỏ sống hằng năm, mọc bò, thân có lông nhất là ở ngọn và các đốt. Lá xẻ thùy 3 đến 5, xẻ sâu, mỗi thùy cũng lại chia thùy nữa. Tlia cuốn có 2- 3 nhánh. Hoa đơn tính, cùng gốc, màu vàng, to. Hoa đực đơn độc, đài hình chuông, tràng 5, nhị 3 (do 4 nhị dính từng đôi, 1 cái rời). Hoa cái có đài, tràng giống hoa đực, 3 nhị lép dạng chi, bầu dưới, 3 ô, vòi nhụy ngắn, 3 đầu nhụy hình thận dày. Quả hình cầu hay hình trứng, vỏ nhẵn bóng, màu lục đen, nhiều khi có vân sẫm, đường kính tới 30-40cm, thịt quả đỏ hay vàng đỏ rất nhiều nước, ngọt. Hạt dẹt, bóng láng hay nhám mờ, màu đen nhạt hay đỏ . Mùa quả ờ miền Bắc từ tháng 4 đến tháng 7, ở các tỉnh miền Nam từ tháng 1 đến 3-4 (trước và sau tết âm lịch)
Dưa hấu và tác dụng chữa bệnh của nó
. B. Phân bố thu hái và chế biến
Dưa hấu được trồng khắp các tỉnh ở miền Bắc và miền Nam nước ta và ở nhiều nước nhiệt đới khác. Chủ yếu người ta trồng để lấy quả ãn. Hạt cũng được thu nhặt để làm thực phẩm. Việc sử dụng các bộ phận của dưa hấu làm thuốc ít được chú ý hơn. Thường chỉ có tính chất địa phương: Người ta dùng vỏ quả giữa của dưa hấu với tên tây qua thủy-Mesocarpium Citrulli. Vỏ dưa được cạo bỏ lớp vỏ ngoài màu xanh, phơi khô vỏ quả giữa mà dùng. Ngoài ra người ta còn dùng lớp vỏ xanh phơi khô với tên tây qua bì-Exocarpium Citrulli. Hạt dưa hấu cũng được thu nhặt phơi khô rang chín mà ăn hay làm nhân bánh, kẹo.
C. Thánh phần hóa học
Trong dưa hấu, đặc biệt loại dưa hấu chua Enslen đã phân lập được từ 1956 một glucozit đặt tên elaterinide. Khi thủy phân axit, elaterinide sẽ cho glucoza và p elaterin hay cucurbitaxin E. Trong hạt dưa hấu, J . Barksdale chiết được chất cucurboxitrin.
Theo bảng Thành phần hóa học thức ăn Việt Nam (Nhà xuất bản y học Hà Nội, 1972, 63) trong dưa hấu có 52% ăn được, 49,7% nước, 0,6% protit, 1,3% gluxit, 0,3% xenluloza, 0,1% tro, 4,2mg% canxi, 6,8mg% p, 0,5mg% Fe, 0,10mg% caroten, 0,02mg% Bị, 0,02mg%> vita- min B2, 0,10mg% vitamin pp và 4mg% vitamin c
. Trong một loài dưa Citrullus colocynthis Schrad. (Coloquinte) dùng làm thuốc tẩy mạnh, Vauquelin và Braconnot đã chiết được một glucozit có tinh thể gọi là colocynthine C56Hg4023, màu vàng, rất đắng, tan trong nước (1/20), trong cồn, không tan trong ête, khi thủy phân cho glucoza và colocynthin C44H64013. Ngoài ra còn colocynthilin và citrullin; trong hạt quả này người ta chiết được 15-17% dầu béo, chất nhầy và muối.
D. Công dụng và liều dùng
Quả dưa hấu được dùng chủ yếu trong nhân dân làm thức ăn bổ và mát vào mùa hè (tết ở miền Nam vào đúng những ngày nóng nực), hạt rang lên ăn hay dùng làm bánh mứt kẹo. Tại Marốc (bắc châu Phi) người ta dùng dưa hấu chế thành một thứ rượu uống: Khoét một mảnh vỏ hình nêm đổ vào đó một ít mật, thêm ít men rượu, đem vùi quả dưa hấu vài ngày trong một đống ngũ cốc (nếu không cho men, men cũng tự phát sinh).
Đóng nêm lại. Sau ít ngày trong quả dưa hấu sẽ xuất hiện một thứ nước uống có rượu, uống cũng có thể say như rượu.
Trong y học cổ truyền dân gian, người ta coi dưa hấu có vị ngọt, tính hơi hàn, có tác dụng thanh thử, giải nhiệt, lợi tiểu, dùng trong những trường hợp huyết áp cao, nóng trong bàng quang, đái buốt, viêm thận, phù thũng, vàng da, đái đường, say rượu, cảm sốt, phiền khát
Ngày dùng 10-40g vỏ quả giữa hay vỏ quả ngoài (tây qua bì) dưới dạng thuốc sắc: Thêm nửa lít nước vào đun sôi giữ sôi trong 15 phút rồi uống thay nước trong ngày. Tại Malaixia, nước ép rễ dưa hấu dùng cầm máu sau khi đẻ hay sau khi bị đọa thai.
Đơn thuốc có vỏ dưa hấu
1. Chữa cảm sốt, đầu váng, mắt hoa, nhiều
2. Chữa đi ỉa chảy: vỏ dưa hấu khô 20g, mồ hôi: hoa hay cành kim nỗân nước 500ml sắc còn 300ml, chia 3-4 lần uống 20g, tnic diệp lOg nước 500ml, đun sôi, giữ sôi trong ngày. 15 Phút- Chia 3 lần uống trong ngày.