Vị thuốc vần G
Gừng
Còn gọi là Zơrơng (Bình Định).
Tên khoa học Zingiber cassumunar Roxb.
Thuộc họ Gừng Zingiberaceae.
A. Mô tả cây
Cây thảo, cao 2m, có thân rễ lớn hơn củ gừng, màu lục vàng, mùi nồng tựa hạt tiêu. Lá không cuống, hình thuôn mũi mác, gốc lá tròn, đẩu thóp nhọn, mặt trên nhẵn, mặt dưới hoi có lông như bột. Phiến lá dài tới 40cm, rộng 3,5cm,
Chú thích:
Ngoài hạt đậu kiềm nói trên, nhân dân còn dùng hạt đậu tắc, còn gọi là đâu rựa, đại đao lưỡi bẹ dạng vẩy mỏng, bẹ lá có khía, có lông.
Cán hoa có lông, dài trung bình 15-25cm vẩy có lông ở gốc, hình mũi mác, không lợp lên nhau, cụm hoa hình thoi, nhiều hoa, dài khoảng 11 cm, rộng 4-6cm, lá bắc lợp lên nhau, mép màu tía. Hoa mau tàn, tràng có ống không vượt quá các lá bắc, thùy hẹp dài. Bao phấn ngắn hơn cánh môi, trung đới dài và mềm yếu. Cánh môi hình tròn chẻ sâu, màu vàng nhạt, có thùy bên do nhị lép tạo thành. Bầu có lông. Mùa hoa: tháng 7-8, quả: tháng 7-9.
Gừng và tác dụng chữa bệnh của nó
B. Phân bố thu hái và chế biến
Cây mọc hoang dại ở vùng núi Ba Vì (thuộc Hà Tây). Có nhiều ở các tỉnh miền Nam, được khai thác và sử dụng với tên zcrrcmg (huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Còn thấy ở Thái Lan (máng tên Phlai), Ân Độ, Malaixia. Nhân dân thu hái thân rễ, đem về rửa sạch, thái mỏng phơi hay sấy khô làm thuốc.
C. Thành phần hóa học
Năm 1979, Trạm nghiên cứu dược liệu Nghĩa Bình đã cất từ thân rễ tươi của gừng dại được 0,5-0,8% tinh dầu. Từ thân rỗ quy ra khô kiệt được 4-5% tinh dầu. Tinh dầu màu vàng nhạt, sánh, mùi thơm. Để ở nhiệt độ phòng thí nghiệm, sau 5 ngày tinh dầu có khoảng 50-70% tinh thể, nếu để tinh dầu ngay vào tủ lạnh thì chỉ 2 giờ sau kết tinh. Tinh thể màu trắng đục, mùi nồng, vị nhạt, không tan trong nước lạnh, tan trong nước ấm rồi nổi lên mặt nước, để lạnh sẽ kết tinh trở lại, tan hoàn toàn trong dung môi hữu cơ.
Theo M.Lawrence, J. w . Hogg và St. J. Terhune (Riechstoffe, Aromen, Korper- flegemittel 20, 261. 1910-Miltitzer Berichte, 1971, 48) tinh dầu cất t£r thân rễ gừng dại ở Thái Lan có tỷ trọng D20 0,894, CCD20 33°36 r|D20 1,489. Bằng sắc ký khí và phổ hồng ngoại đã xác định được 2,5% ocpinen, 0,1% camphen, 2,1% ßpinen, 33,4% Sabinen, 1,6% myrxen, 4,8% CCtecpinen, 0,7% limonen, 1,1% 1-8 xineol, 9% ytecpinen, 2,1% p-cymol, 2,1% tecpinolen, 0,6% trans -sabinenhydrat, 0,5% cis- sabinenhydrat, 0,7% cis-p-menthen-2-ol (1), 33,3% tepinenol (4), 0,5% trans-p-menthen-2- ol(l)+tecpinenl-yl~4-axetat, 0,4% atecpineol + atecinylaxetat, 0,2% cis-piperitol, 4,3% một thành phần chưa xác định được.
Năm 1971, T. E. Casey, J . Dougan, w. s. Matthews và J. Nabney Ợropical Sc. 13, 199- Miltitzer Berichte 1972, 60) nghiên cứu tinh dầu cất từ thân rỗ gừng dại Thái Lan thu được 0,55 tinh dầu màu vàng nhạt, mùi thơm hơi cay, với tỷ trọng d20 0,895, aD20 33°2, r|D20 1,489, tan trong 4,6 phần cồn 80°, với 36,5% ancol toàn phần, (C10H18O) trong đó có khoảng 35% tecpinenol-(4). Ngoài ra còn xác định một số thành phần khác như apinen, ßpinen, Sabinen, myrxen, atecpinen, limonen, tecpinen, P-cymol và tecpinolen và một số thành phần chưa xác định khác.
Năm 1975, {Internat. Flavours 6, 136 1936- Miltizer Berichte 1975, 70) D. M. Baker và J . Nabney đã tách được từ tinh dầu gừng dại Thái Lan chất l-(3,4-dimetoxyphenyl) butadien (2,4). CMnạyđã đuọcTECasey,J.Dougan,w.s. Matthews và J. Nabney xác định một số năm nhưng vẫn chưa tách ra được {Vgl. Tropical Sc. 13, 199, 1971).
D. Công dụng và liều dùng
Cây này hầu như chưa thấy sử dụng ở miền Bắc nước ta. Dân tộc Bana huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định rất hay dùng thân rễ gừng dại với tên “ngải”, zơrơng” để chữa lỵ mãn tính, toi gà. Nhân dân Malaixia dùng thân rễ cho trẻ ăn để tẩy giun và cho phụ nữ sắc uống sau khi đẻ. Thân rễ ngâm rượu dùng xoa bóp bụng cho phụ nữ sau khi đẻ. Người ta còn dùng chữa thấp khớp, đau nhức và những trường hợp viêm tấy.