Vị thuốc vần H
Hoa Hiên
Còn gọi là hoàng hoa, kim trâm thái, huyền thảo, lêlô, lộc thông.
Tên khoa học Hemerocallis fulva. L. Thuộc họ Hành tỏi Liliaceae.
Cây hoa hiên có thể cho ta các vị thuốc sau đây:
1: Rễ hoa hiên-hoàng hoa thái căn (Radix Hemerocallitis) là rễ và thân rễ phơi khô của cây hoa hiên.
2. Lá hoa hiên (Folium Hemerocaỉlitis) là lá cây hoa hiên hái tươi mà dùng.
A. Mô tả cây
Hoa hiên là một loại cỏ sống lâu năm, thân rễ rất ngắn, có rễ mẫm nhưng nhỏ. Lá hình sợi, dài 30-50cm, rộng 2,5cm hay hơn, trên mặt có nhiều mạch. Trục mang hoa cao bằng lá, phía trên phân nhánh, có 6-10 đến 12 hoa. Hoa to, màu vàng đỏ, có mùi thơm, tràng hoa hình phễu, phía trên xẻ thành 6 phiến. Nhị 6. Bầu có 3 ngăn. Quả hình 3 cạnh. Hạt bóng, màu đen. Ra hoa vào mùa hạ và mùa thu.
Hoa hiên và tác dụng chữa bệnh của nó
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Hoa hiên mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi trong nước ta đổ lấy hoa nấu cạnh. Một số nơi dùng lá hay hoa làm thuốc chữa đổ máu cam. Còn mọc ở Trung Quốc, Nhật Bản, chãu Âu lá hái quanh năm; rễ đào vào thu đông, có khi vào các mùa khác, dùng tươi hay phơi khô, thường dùng tươi.
C. Thành phần hóa học
Khương Chi Nghĩa (Viện dược học Nam Kinh, Trung Quốc) đã chiết được từ rỗ hoa hiên của Trấn Giang 3 chất có tinh thể gọi là chất A, B và C có độ chảy 165-167°c, qua thí nghiệm dược lý thì có tác dụng ức chế đối với huyết hấp trùng nhưng có độc.
Các bộ phận khác, chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.
D. Tác dụng dược lý
Năm 1964, Ngô Thế Phương (Bộ môn sinh lý) và Dương Hữu Lợi (Bộ môn dược lý) Trường đại học y khoa Hà Nội đã dựa vào kinh nghiệm nhân dân, nghiên cứu cơ chế tác dụng của hoa hiên trên súc vật thì thấy (Tạp chí đông y số 76 (1966), trang 18-22):
- Dùng nước sắc hoa hiên thời gian Quick giảm rõ rệt, nghĩa là làm tăng tỷ lệ protrombin toàn phần.
- Cũng như vitamin K, nước sắc hoa hiên có tác dụng chống lại tác dụng của dicumarin.
- Tiểu cầu tăng, hồng cầu tăng, nhưng số lượng bạch cầu và công thức bạch cầu không thay đổi.
- Tăng trương lực của tử cung và thành ruột cô lập.
- Tác dụng ngoại vi rõ rệt hơn là tác dụng trung ương.
E. Công dụng và liều dùng
Hoa hiên mới thấy được dùng trong phạm vi nhân dân.
Theo đông y, hoa hiên có vị ngọt, tính mát, có tác dụng chữa vàng da do rượu, tiểu tiện ra sỏi, sạn, vú sưng đau, máu cam.
Thường dùng làm thuốc lợi tiểu, giảm đau, chữa sốt, thủy thũng, thân thể bị vàng, tiểu tiện khó khăn, vú sưng đau, lỵ, chảy máu cam, sưng đau khớp xương, nôn ra máu.
Liều dùng hằng ngày là 6-12g dưới dạng thuốc sắc,hay ép tươi lấy nước uống. Dùng ngoài, lấy củ tươi giã nát đắp lên nơi sưng đau.
Gần đây, tại Trung Quốc có nơi dùng rễ hoa hiên điều trị có kết quả rõ rệt bệnh huyết hấp trùng (sán máu, sán máng-schistosomiase), nhưng với liều cao có thể gây mờ mắt.
Đơn thuốc có hoa hiên dùng trong nhân dân
Chữa chảy máu cam: Lá hoa hiên 15-20g, nấu với 300ml nước, cô còn 200ml chia 2 lần uống trong ngày.
Chú thích:
Tại Trung Quốc, ngoài rễ cây hoa hiên Hemerocallis fulva ra, người ta còn dùng rễ của nhiều loài Hemerocallis khác như Hemerocallis thunbergii Baker, Hemerocallis citrina Baroni, H. minor Mill. Ở nước ta tên khoa học chưa được xác định chắc chắn, theo kinh nghiệm loại hoa vàng có tác dụng mạnh hơn loại hoa đỏ.