Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần M

Mồng Tơi

14:05 23/05/2017

Mồng Tơi có tên khác: Rau mồng tơi, phjăc păng (Tày).

Tên nước ngoài: Indian spinach, malabar nightshade (Anh); épinard d'Amérique, épinard de Chine, baselle(Pháp).

Họ: Mồng tơi (Basellaceae).

Mô tả

Cây thảo, sống một năm hay hai năm. Thân quấn, màu lục hoặc hung đỏ. Lá mọc so le, hình bầu dục hoặc hình trứng, dài khoảng 5-7cm, rộng l-3cm, gốc bằng hoặc hình tim, đầu tù hoặc hơi nhọn, phiến nạc, nguyên, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng.

Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành bông nạc rất thưa; hoa mọc cách xa nhau, không cuống, màu tím nhạt, mỗi hoa kèm theo 2 lá bắc nhỏ, rụng sớm; đài hoa, 5 thùy hợp, mọng nước sau khi quả hình thành; tràng 0; nhị 5,chỉ nhị ngắn; bầu nhớt.

Quả bế, hình cầu đựng trong bao hoa nạc, màu tím sẫm; hạt nhỏ. Mùa hoa quả: tháng 6-8.

Trong thực tế, cây mồng tơi có 2 thứ:

- Basella rubra L. var. nigra Lour. có thân màu hung đỏ, hoa màu trắng tím, quả màu đen nhánh.

- Basella rubra L. var. alba L., thân màu lục, hoa và quả trắng.

Mồng tơi và tác dụng chữa bệnh của nó

Phân bố, sinh thái

Trong quá trình trồng trọt ở các vùng khác nhau, mồng tơi có nhiều biên chủng khác nhau (M. Rahmansyah, 1994, B.alba L., in J.S.Sie-monsma & Kasem Pilucek; PROSEA N° 8, Vegetable, 93-95). Mồng tơi có lẽ có nguồn gốc từ Ấn Độ. Từ trước công nguyên, cây đã được đưa vào trồng ở vùng Đông Nam Á và Trung Quốc. Ngày nay, mồng tơi là loại rau ăn phổ biến ở khắp vùng nhiệt đới châu Á, châu Phi và châu Mỹ, dặc biệt tại Malaysia, Philippin và Việt Nam là những nước trồng nhiều nhất loại rau này.

Mồng tơi là loại cây nhiệt đới điển hình, có biên độ sinh thái rộng. Cây ưa sáng và ưa ẩm. Chỉ có những cây không bị thu hái lá và ngắt ngọn thưòng xuyên mới ra hoa quả. Hoa nở trong vòng 10-13 giờ mới tàn, tự thụ phấn hay nhờ côn trùng.

Cách trồng

Mồng tơi được trồng khắp mọi nơi để làm rau ăn. Cây không kén đất, trừ đất khô cằn, quá nhiều sỏi đá, thiếu nước nghiêm trọng. Muốn cây sinh trưởng nhanh, lá to, mau thu hoạch, cần chọn đất cát pha, đất nhẹ, nhiều màu, tốt nhất là đất trồng màu.

Người ta gieo trồng mồng tơi bằng hạt. Hạt được gieo trong vườn ươm, rồi đánh cây con đi trồng. Thời vụ gieo trồng vào tháng 2-3 và có thể kéo dài đến hết mùa hè. Có thể gieo 2-3 lứa trong một năm. Cây sinh trưởng mạnh vào mùa hè và đầu mùa thu.

Đất trồng cần cày, bừa, lên thành luống cao 20- 25cm, rộng 1-1,2m rồi bón phân, trồng cây con với khoảng cách 20 X 20cm. Phân bón lót chủ yếu là phàn chuồng hoai mục. Thường xuyên làm cỏ, xới xáo, giữ đủ ẩm. Mỗi lần thu hái xong, cần bón thúc bằng nước phân chuồng, nưóc giải hoặc đạm pha loãng. Nếu trổng ít, có thể cắm đèo, làm giàn cho cây leo. Nếu trồng nhiều, không cần cho cây leo mà thu hoạch theo lứa, mỗi lứa cắt tỉa cả ngọn mang lá hoặc nhổ cả cây và gieo trồng đợt khác. Mồng tơi ít bị sâu bệnh, chủ yếu có sâu hại lá như sâu xanh, châu chấu, bọ nhảy. Cần phòng trừ kịp thời.

Bộ phận dùng

Toàn cây thu hái quanh năm, thường dùng tươi. Hạt thu ở quả chín, phơi khô.

Tác dụng dược lý

Nước ép từ mồng tơi với nồng độ 50g/lít, cho thẳng vào dạ dày với liều 10 và 20 ml/kg trên chuột cống trắng được gây sốt bằng men bia, có tác dụng hạ sốt. Trên mô hình gây phù thực nghiệm bàn chân chuột cống trắng bằng cách tiêm ovalbumin hoặc fonnaldehyd, nước ép mồng tơi có tác dụng ức chế phù một cách rõ rệt; ngoài ra, còn có tác dụng ức chế tính thẩm thấu tăng cao của các mao mạch trong ổ bụng chuột nhắt do acid acetic gây nên. Thí nghiệm trên chuột cống trắng, nưóc ép mồng tơi dùng liôn tục trong 7 ngàv, có lác dụng ức chế sự hình thành tổ chức u hạt bằng phương pháp cấv dưới da viên bông.

Tính vị, công năng

Mồng tơi có vị ngọt, chua, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, hoá tràng, lương huyết, giải dộc.

Công dụng

Ở Việt Nam, mồng tơi là rau ăn phổ biến và vị thuốc thường dùng. Cây chữa đại tiện táo bón, tiểu tiện khó nhăn, tiêu chảy ra máu, lia nổi ban, mụn nhọt. Khi bị táo bón, lấy lá và cành non mồng tơi nấu canh ăn, hoặc (dùng bài thuốc có rau mồng tơi 50g, rau (lấy 50g, 1 - 2 củ khoai sọ, rửa sạch, thái nhỏ, nấu ăn trong ngày. Hoặc dùng phối hợp 4 loại rau (rau mồng tơi, rau má, rau (lay, rau lang) mỗi thứ 50g, thái nhỏ sắc với 400ml nước còn 100ml uống trong ngày. Những người cao tuổi thường hay bị táo bón, (dùng rau mồng tơi ăn hàng ngàv rất tốt.

Chú ý: Những người cơ thể tỳ lạnh, đi ỉa lỏng không dùng mồng tơi. Dùng ngoài, lấy lá mồng tơi 50g, lá ớt 50g, xương rồng bà có gai (một khúc cành cạo sạch gai), rửa sạch, giã nát bàng đắp chữa mụn đầu đinh. Ngày thay một lần. Đồng thời, nên uống nước sắc lá bồ công anh 20g, măng tre 20g và gừng 8g, dùng 3-5 ngày. Lá mồng tơi giã nát đắp còn chữa đầu vú nứt nẻ.

Ở Malaysia, lá mồng tơi giã nát, dùng ngoài đắp chữa mụn nhọt. Ở Indonesia, nước sắc của lá dùng làm thuốc tẩy nhẹ cho trẻ em. Dịch ép của lá với một ít nước chanh và nước dừa thường dược dùng cho phụ nữ có mang, còn các bà đỡ thường cho phụ nữ đẻ uống hỗn hợp dịch ép từ lá mồng tơi và lá dâm bụt. Lá mồng tơi phối hợp với riềng và giấm chữa thổ tả. Ở Philippin, rề mồng tơi giã nát đắp ngoài làm thuốc tiêu sưng, dịch ép từ rỗ bôi chừa trứng cá.

Ngoài các công dạng chữa bệnh trên, phụ nữ dùng hạt mồng tơi bỏ vỏ phơi khô, tán thành bột mịn, trộn với mật ong, bôi hàng ngày lên mặt, để làm cho da mặt mịn màng tươi sáng. Bột mồng tơi trộn với phấn xoa trừ rôm sảy. Ở Trung Quốc, chất màu của loại mồng tơi tía được dùng chế phấn bôi da và sáp môi. Quả mồng tơi tía để nhuộm dỏ các loại bánh, mứt nếu thêm ít dịch quả chanh màu sẽ tươi lên, nhưng không được dùng quá nhiều.

 

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC