Vị thuốc vần M
Mực Nang
Sepia spp.
Tên khác:Cá mực, mực mai, mực ván, ô tặc ngư, mặc ngư.
Tên nước ngoài: Cuttle - fish (Anh), seiche (Pháp).
Họ: Mực nang (Sepiidae).
Mô tả
Loài động vật không xương sống. Cơ thể mực nang chia làm hai phần : đầu và thân. Phần đầu có 8-10 tay với những hàng giác bám, tay xúc giác dài hơn thân. Miệng ở dưới bụng. Phần thân mềm chiếm 70 % trọng lượng, có hình bầu dục, mặt lưng có nhiều vân gợn sóng. Mai mực là lớp vỏ trong bằng đá vôi xốp bọc một lớp sừng mỏng.
Có nhiều loài mực nang được sử dụng làm thuốc như Sepia latimanus Quoy et Guimard, S.subaculeata Sasaki, S. herculus, s. japonica, s. ỉycidas, s. pharaonis Ehrenberg, s. esculenta Hoyle
Phân bố, sinh thái
Trên thế giới, mực nang phân bố ở vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở Việt Nam, mực nang có suốt dọc vùng biển từ Hải Phòng đến Vũng Tàu. Chúng sống ở tầng nưóc sâu, có độ mặn cao, thành từng đàn ở dưới đáy, khi kiếm mồi mới nổi lên tầng nước trên. Mực nang có cách di chuyển rất đặc biệt, theo nguyên lý phản lực là phụt nước qua một lỗ ở mặt bụng. Ăn cá, giun và các động vật khác nhỏ hơn. Mùa sinh đẻ vàc tháng 4-9.
Bộ phận dùng
Mai mực được dùng chủ yếu trong y học cổ truyền với tên thuốc là ô tặc cốt hay hải phiêu tiêu.
Người ta khai thác mực nang vào tháng 6-8. Mực bắt về, đem mổ lấy thịt, giữ lại mai, rửa sạch muối bám ở ngoài, phơi khô. Những con mực nang chết để lại mai bị sóng đánh trôi dạt vào bờ, cũng dùng được. Khi dùng, cạo sạch vỏ cứng ở ngoài mai, cắt thành miếng nhỏ hoặc tán bột, rây mịn.
Dược liệu mai mực nguyên bản có hình bầu dục dài, dẹt, ở giữa dày, mép mỏng, dài 10-16 cm, rộng 3,5-6,5 cm. Mặt lưng màu trắng hoặc ngà, lấm tấm những nốt nhỏ chi chít, có một lớp màng cứng giòn. Mặt bụng màu trắng đôi khi phủ một lớp màng mỏng trong suốt màu vàng, có nhiều vàn. Chất nhẹ, xốp giòn, dễ bẻ gãy. Thứ khô, chắc, màu trắng như phấn, không gãy vỡ là tốt. Thứ vàng hoặc đen là kém phẩm chất.
Theo tài liệu cổ, thịt mực nang cũng được dùng, nhưng không phổ biến.
Thành phần hoá học
Mai mực có các muối calci dưới thể carbonat, phosphat, Sulfat, các chất hữu cơ và chất keo. Thịt mực có 16,3% protid, 0,9 % lipid, 14 mg % Ca, 15 mg% p, 0,6 mg % Fe, vitamin B[ (0,01 mg %), vitamin Bj (0,06 mg%), vitamin pp (1 mg %), vitamin B6 (0,07 mg %).
Tính vị, công năng
Mai mực có vị mặn, chát, mùi hơi tanh, tính ấm, không độc, có tác dụng chỉ huyết, làm se. Thịt mực có vị ngọt, chua, tính bình, có tác dụng bổ trung, ích khí, điểu kinh.
Công dụng
- Dùng trong: Chữa ho ra máu, phụ nữ bị băng huyết, trẻ em chậm lớn. Ngày uống 4-8 g bột mai mực, có thể đến 12 g. Dùng liền 7-10 ngày, nghỉ một tuần, sau lại tiếp tục nếu cần thiết. Chữa đại tiện ra máu : Mai mực nướng vàng, tán bột, mỗi lần uốrg 4- 8g với nước sắc cây mộc tặc (Nam dược thần hiệu).
- Dùng ngoài: Chữa viêm tai có mủ. Lấy bột mai mực rắc hoặc dùng tăm bông sạch thấm thuốc ngoáy vào tai. Ớ Ân Độ, người ta lại trộn bột mai mực với nước ép lá cà độc dược. Mai mực và hoa hoè (luợng bằng nhau) nửa để sống, nửa sao, tán bột, thổi vào mũi chữa chảy máu cam (Nam dược thần hiệu).
Một số bệnh viện đã dùng mai mực vót nhọn như bút chì, ngâm vào dung dịch rễ hoàng liên với tỷ lệ 1 - 5 %, rồi đánh mắt chữa đau mắt hột.
Để chữa bỏng, lấy mai mực đốt thành than, rây bột mịn, trộn với dầu vùng hoặc dầu dừa thành một hỗn hợp sền sệt, bôi ngày hai lần. Khoảng một tuần, vết bỏng sẽ se lại và lành. Có thể trộn bột than mai mực với lòng trắng trứng gà, bôi chữa lở loét ở âm hộ.
Bài thuốc có mai mực
1.Chữa đau loét dạ dày, tá tràng, ợ chưa, đại tiện táo:
- Mai mực (20 g), cam thảo (12 g), thổ bối mẫu (6g), tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống hai lần, mỗi lần 6g vào trước mỗi bữa ăn khoảng nửa giờ.
- Mai mực (60 g), mẫu lệ (30 g, nung), gạo tẻ (30 g, sao vàng), hoàng bá (20 g, sao vàng), màng mề gà (20 g, sao vàng), cam thảo (20 g), hàn the (lOg, phi). Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống hai lần, người lớn mỗi lần 8g; trẻ em 5-10 tuổi, mỗi lần 2g: trên 10 tuổi, mỗi lần 4g (Kinh nghiệm của Viện Y học cổ truyền).
- Mai mực (120 g), cam thảo (200 g), màng mề gà (20 g), hương phụ (20 g, chế với giấm và nước tiểu, sao vàng), lá cà độc dược khô (12 g), hàn the (10 g, phi), phèn chua (10 g, phi), vỏ quýt (8 g). Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 2-3 lần vào khoảng giữa hai bữa ăn. Người lớn mỗi lần 4g, chiêu với nước ấm. Phụ nữ và trẻ em nhỏ tuổi không nên dùng (Kinh nghiệm của Viện Quân y 103).
2. Chữa cam tẩu mã, loét mũi, viêm tai chảy nước:
Mai mực (12 g), hoàng liên (12 g), thanh đại (12 g), hồng đơn (12 g), ngũ bội tử (12 g), tế tân (12 g), nhân trung bạch (12 g), phèn phi (8 g), mai hoa (4 g). Từng thứ sao riêng, trừ hồng đơn, mai hoa, thanh đại, rồi tán nhỏ mịn, trộn đều. Khi dùng, rắc vào vết thuơng, vết loét.
Ở Việt Nam, thịt mực nang tươi ít được dùng chữa bệnh. Trái lại, ở Trung Quốc, người ta sử dụng thịt cá mực dưới dạng thức ăn - vị thuốc theo kinh nghiệm dân gian gia truyền. Thịt cá mực (1 con), nhân hạt đào (15 g), nấu chúi, ăn hết làm một lần. Chữa tắc kinh. Cá mực tươi (250 g) rửa sạch, thái nhỏ, xào chín với ít muối và 1-2 thìa nước gừng. Ăn trong bữa ăn hàng ngày. Thuốc bổ máu, khai vị, tăng cưòng thổ lực cho đàn bà đẻ. Thịt cá mực tươi (50-100 g) thái miếng, luộc chín, để ráo. Cho vào bát cùng với gừng (5 g), hành (10 g), giấm (10 g), dầu vừng đen (10 g), muối ăn (5 g), trộn đều. Ăn trong một ngày. Thuốc thanh nhiệt, giải độc, giảm mỡ, hạ huyết áp.
Nước màu đen trong túi cá mực đun nhỏ lửa cho đến khi thành bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần từ 1-2 g. Chữa xuất huyết dạ dày, chảy máu tử cung.
Mai mực sấy khô, tán thành bột, mỗi lần uống 15g với một ít đường đỏ, chữa thở khò khè, thở gấp, đờm nhiều. Ngày dùng hai lần.