Vị thuốc vần R
Rễ Gió
Rễ Gió có tên khác: Bắc mã đâu linh.
Họ : Mộc hương (Aristolochiaceae).
Mô tả
Thân leo nhẵn, dài hàng mét. Rễ hình trụ màu nâu vàng. Lá mọc so le, hình tim, đài 13 - 18 cm, rộng 10 -14 cm, gốc lõm sâu, đầu nhọn, mép nguyên, mặt trên nhẵn, mặt dưới có nhiều lông mịn, gân lá kết thảnh mạng lưới rõ; cuống lá dài 3 - 7 cm.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá, gồm 3-10 hoa; lá bắc màu lục tím; bao hoa hình trụ, hơi cong, dài 3 - 4 cm, gốc phình lên hình cầu, họng có lông, phiến bao hoa chia 2 môi, môi trên thuôn nhọn dài, đầu hơi vặn xoắn, mặt trên xanh nhạt có 3 đường vân màu tím nâu, mặt dưới màu nâu tím, môi dưới có 2 thùy nhỏ; nhị 6, đính quanh vòi nhụy, trên bao phấn có một phần phụ hợp thành vòng; bầu hạ. Quả nang hình trứng, dài 4 - 6 cm, khi chín nứt làm 6 mảnh từ đầu cuống; hạt hình tam giác, dẹt, mép có cánh. Mùa hoa quả : tháng 3-5.
rễ gió và tác dụng chữa bệnh của nó
Phân bố, sinh thái
Chi Aristolochia L. có gần 300 loài trên thế giới phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới; một số ít loài có ở vùng ôn đới ấm. Tuy nhiên, vùng nhiệt đới Nam Mỹ được coi là có mức độ đa dạng cao vể thành phần loài của Chi này. Khu vực Đông Nam Á cũng là nơi có số lượng loài lớn ở châu Á : Malaysia, 28 loài; Việt Nam khoảng 15 loài (mẫu đang được lưu trữ ở Viện Dược liệu). Rễ gió có vùng phân bố chủ yếu ở khu vực Đông Á, bao gồm Triều Tiên, Nhật Bản, Trung Quốc, đảo Đài Loan và cả Việt Nam.
Ở Việt Nam, cây mới được phát hiện ở Lạng Sơn, Cao Bằng (?) và Kon Tum (Võ Văn Chi, 1996). Cây ưa ẩm, chịu bóng ở thời kỳ còn nhỏ, sau leo lên các cây bụi khác trở thành ưa sáng. Cây thường mọc ở ven rừng (rừng núi đá vôi), bờ nương rẫy, ở độ cao 350 m trở lên, ra hoa quả hàng năm, mỗi quả chứa nhiều hạt. Hạt có màng mỏng bao quanh, thuận lợi cho việc phân tán nhờ gió.
Rễ gió ở Việt Nam là loài tương đối hiếm gặp. Do đó, cần đưa cây thuốc này vào danh mục Đỏ để chú ý bảo vệ.
Bộ phận dùng
Thân cây, quả.
Tác dụng dược lý Acid aristolochic A chứa trong rễ gió ức chế một số vi khuẩn gram + gồm tụ cầu, liên cầu, song cầu, Baciỉỉus, Sarcina và Mycobacterium ở nồng độ 50 - 200 ug/ml, và ức chế vi khuẩn gram âm và nấm ở nồng độ lớn hơn 200 ug/ml. Chuột nhắt trắng gây nhiễm khuẩn với tụ cầu vàng, phế cầu, hoặc liên cầu tan máu được bảo vệ không bị bệnh khi được tiêm phúc mạc acid aristolochic A vối liều 50 ug/kg. Hoạt tính thực bào của đại thực bào ở phúc mạc chuột nhắt trắng điều trị được kích thích một cách rõ rệt.
Chuột nhắt trắng mang u báng sarcom-37 được điều trị với acid aristolochic A tiêm phúc mạc với liều hàng ngày 1,25-5 mg/kg trong 5 ngày có thời gian sống sót kéo dài hơn. Sự phát triển của tế bào sarcom- 37 của chuột nhất trắng bị ức chế hoàn toàn khi ủ với acid aristolochic A. Điều trị chuột nhắt trắng vói acid aristolochic A với liều tiêm phúc mạc hàng ngày 2,5 - 5 mg/kg trong 3 ngày sau khi cấy dưới da tế bào sarcom-37 có hiệu quả ức chế sự phát triển u 40 - 50%.
Acid aristoỉochic A cho uống làm giảm số lượng u gây bởi methylcholanthren ở chuột nhắt trắng. Tác dụng chống khối u khi cho uống tốt hơn khi tiêm. Độc tính cấp tính lớn hơn ở giống đực, trong khi ở giống cái, độc tính mạn tính lớn hơn. Với liều nhỏ hơn EDS0 (1,15 mg/kg), acid aristoỉochìc A có hoạt tính kháng khối u cao hơn ở giống đực so với ở giống cái; với liều cao hơn, quan sát thấy điều ngược lại. Acid aristolochic A làm tăng sự tiêu thụ oxy phụ thuộc vào liều ở tế bào gan và tế bào đơn nhân lách chuột nhắt trắng. Hoạt tính chuyển hóa của đại thực bào ở phúc mạc chuột lang và của bạch cầu người cũng tăng lên qua đánh giá lượng oxy tiêu thụ. Acid aristolochic A có hoạt tính kích thích miễn dịch.
Ngược lại với kết quả nêu trên, có tác giả công bố acid aristolochic không kéo dài thời gian sống sót của chuột nhắt trắng mang u, không làm tăng chức năng miễn dịch của hệ thống lưói - nội mô, hoặc hoạt tính thực bào của đại thực bào phúc mạc chuột nhắt trắng. Trị số của LD50 ở chuột nhắt trắng là 14,3 mg/kg tiêm phúc mạc, và 48 mg/kg uống. Không thấy có dị thưòng ở các phủ tạng chuột cống trắng sau khi tiêm phúc mạc < 4 mg/kg/ngày trong 7 ngày. Acid aristolochic A có tác dụng gây đột biến trực tiếp trên các chủng Salmonella typhỉmurium TA 1537 và TA 100. Hoạt tính gây ung thư của acid aristolochic A đã được chứng minh trên động vật thí nghiệm, và hoạt tính chống thụ thai được chứng minh trên chuột nhắt trắng cái. Có tác dụng chống làm tổ ở thời kỳ đầu mang thai. Tiêm acid aristolochic A trong màng ối vào thời kỳ giữa mang thai đã gây sẩy thai ở chó và chuột cống trắng. Magnoílorin chứa trong rễ gió có tác dụng gây hạ huyết áp. Trị số LD50 của magnoílorin tiêm tĩnh mạch cho chuột nhắt trắng là 20 mg/kg. Cho uống với liều gấp 10 lần trong 4 tuần không gây độc.
Công dụng
Rễ gió còn ít được dùng làm thuốc chữa bệnh ở Việt Nam. Trong y học cổ truyền Trung Quốc, quả chín khô của rễ gió được dùng điều trị bệnh đường hô hấp, ho và hen. Phần trên mặt đất của cây phơi khô được dùng làm thuốc lợi tiểu chống phù và làm thuốc trị thấp khớp.