Vị thuốc vần R
Rết
Rết có tên khác: Rít, thiên long, bách túc trùng, bách cước.
Tên nước ngoài: Centipede (Anh); mille - pattes, scolopendre (Pháp).
Họ: Rết (Scolopendridae).
Mô tả
Thân hẹp ngang, dẹt, dài 7-15 cm, có thể dài đến 20 cm gồm 20 - 22 khoanh đốt có kích thước gần bằng nhau, mỗi đốt mang một đôi chân mọc ra hai bên, hơi cong về phía sau. Đầu tròn ngắn, có 2 râu (xúc giác) dài hơn chân, chẽ ngang. Miệng có răng nhọn sắc và tuyến độc. Đốt cuối hơi nhỏ, thường không có chân. Phần đuôi có hai chân dài, duỗi thẳng. Lưng màu nâu đỏ hay nâu đen, bụng màu vàng nâu.
Phân bố, sinh thái
Rết phân bố chủ yếu ở nhiều nước châu Á. Ở Việt Nam, rết sống hoang ở những nơi ẩm thấp, tối tăm như dưới tảng đá, lá cây, gỗ mục, mái nhà tranh, góc vách đất, kệ chum vại. Ăn sâu bọ và đẻ trứng vào tháng 3-5; rết con có màu trắng, sau lột xác biến thành màu nâu đỏ. Chưa được nuôi. Trái lại, ở Trung Quốc và Hàn Quốc, có nghề nuôi rết làm thuốc và xuất khẩu.
Bộ phận dùng
Toàn thân con rết có tên thuốc trong y học cổ truyền là ngô công. Bắt rết vào mùa xuân - hạ, lấy con to, buộc vào thanh tre cho thẳng, phơi hoặc sấy khô. Bảo quản trong lọ hoặc hộp kín, tránh ẩm. Dược liệu dài, thẳng và dẹt, đầu và thân màu nâu đỏ hoặc nâu đen, óng ánh, bụng nhăn nheo màu vàng nâu, mặt cắt ngang rỗng giữa, còn đủ chân màu vàng là loại tốt. Khi dùng, bỏ đầu, đuôi và chân. Sách cổ còn ghi bọc rết bằng lá bạc hà rồi nướng vàng. Có thể chế rượu rết để dùng theo cách làm sau: Để nguyên con rết sống hoặc nhúng nước nóng già (70 - 80°) hoặc lấy rết đã phơi khô, với số lượng không hạn chế, ngâm rượu 90° cho ngập, để càng lâu càng tốt.
Tính vị, công năng
Rết có vị cay, hơi mặn, tính ấm, có độc, vào kinh can, có tác dụng khỏ phong, trấn kinh, giải độc, sát khuẩn.
Công dụng
Theo kinh nghiệm dân gian, rết được dùng làm thuốc trong những trường hợp sau :
- Chữa chín mé (đầu ngón tay sưng đau): Rết phơi khô, tán bột, hoà với mật lợn, bôi nhiều lần trong ngày.
- Chữa mụn nhọt sưng đỏ, đau nhức, áp xe: Rết to (5 con) ngâm ngập cồn 90° (100 ml) trong 10 ngày, càng lâu càng tốt. Ngày bôi 1-2 lần. Nếu mụn nhọt mới sưng, sẽ tan ngay (Kinh nghiệm của Bệnh viện Thác Bà - Yên Bái).
- Chữa trĩ: Rết sấy khô, tán nhỏ mịn, trộn với ít bột long não và rượu, bôi hàng ngày.
- Chữa ung nhọt, mụn mạch lươn ở trẻ em: Rết (24g) đốt cháy, tán bột cho vào nhựa thông (200 g) đã nấu chảy cùng với dầu lạc (32 g), khuấy đều. Để nguội, cho vôi bột (16g) vào lại khuấy đều cho thật nhuyễn thành cao. Khi dùng, phết cao lên giấy, dán vào nhọt. Đối với nhọt chưa vỡ mủ, cứ 2 ngày thay thuốc một lần; đối vói nhọt đã vỡ mủ, ngày thay một lần (Cao rết của hiệu thuốc Kim Liên - Nam Định).
- Chữa liệt thần kinh mặt, đau nhức, tê thấp, kinh phong, co giật, cấm khẩu: Rết tán bột mịn, trôn với bột cam thảo (lượng hai thứ bằng nhau). Ngày uống 0,5 g chìa làm 3 lần. Chú ý khi dùng phải theo đúng liều lượng quy định. Ngoài ra, khi bị rết cắn, người ta xử lý đơn giản bằng một trong những phương cách sau:
- Lấy ngay con rết vừa cắn, mổ bụng, lấy ruột bôi ngay lên vết cắn, sẽ làm dịu ngay đau nhức.
- Lấy lông cánh gà ngoáy vào trong họng con gà quệt lấy dãi, bôi nhiều lần lên vết cắn trong ngày.
- Bắt con ốc sên lớn lau sạch đất cát dính ở miệng ốc, dùng que nhọn kích thích vào mình ốc để lấy nhớt, bôi ngay vào vết cắn.
- Tỏi tươi đem giã nát, dùng riêng hoặc trộn với máu mào gà đắp vào vết cắn làm nhiều lần.
Trong thú y, người ta dùng rượu rết (dùng nguyên hoặc pha loãng với nước theo tỷ lệ 1/1) mỗi ngày 5ml, chia làm 2 lần để phòng và chữa bệnh gà rù.
Theo tài liệu nước ngoài, ở Trung Quốc, con rết cũng được dùng chữa nhiều bệnh:
- Chữa trúng phong: Rết (1 con), bọ cạp (1 con), thấu cốt thảo (15 g). Tất cả sao vàng, tán bột, rây mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 7,5g với nước đun sôi để nguội.
- Chữa liệt mặt: Rết (1 con) sao vàng, tán nhỏ; phòng phong (25 g) thái nhỏ, phơi khô. Hai thứ sắc với 200 ml nước còn 50 ml, uống hết làm một lần.
- Chữa viêm tinh hoàn : Rết và nhục quế (lượng bằng nhau), sao vàng, tán bột. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 0,5 - lg.