Vị thuốc vần R
Ruối
Ruối còn gọi là Duối, snai (campuchia), som po, ta ko, re mo (Lào).
Tên khoa học Streblus asper Lour.
Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.
A. Mô tả cây
Cây có thể cao tới 4-8m, cành mang hoa gày. Lá hình trứng, dài 3-7cm, rộng 12- 35mm, mép có răng cưa, cứng, nháp, không có lông. Hoa đực cái khác gốc, hoa đực họp thành đầu có cuống, đính phía dưới những cành ngắn, hoa cái mọc đơn độc Hiện nay tật lê thường dùng chữa đau mắt, nhức vùng mắt, chảy nước mắt. Ngoài ra còn dùng làm thuốc bổ thận, trị đau lưng, tinh dịch trên một cuống. Quả thịt, màu vàng nhạt, to bằng hạt tiêu, hơi nổi lên giữa đài
Ruối và tác dụng chữa bệnh của nó
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Ruối là một cây mọc rất phổ biến và được trồng ở khắp các tỉnh trong nước ta để làm hàng rào do có nhiều cành chằng chịt với nhau. Còn mọc ở Ấn Độ, miền nam Trung Quốc và Philipin. Người ta dùng iá thân, rễ tươi và khô, thu hái gần như quanh năm. Nhựa ruối cũng được dùng.
C.Thành phần hoá học
Trong nhựa mủ ruối có nhựá (Resin) và một ít cao su. Trong nhựa mủ đã đông đặc, tỷ lệ nhựa tới 76% và cao su là 23%. Các chất khác chưa biết.
D. Công dụng và liều dùng
Ruối còn gọi là một vị thuốc dùng trong phạm vi kinh nghiệm nhân dân. Nhân dân thường dùng nhựa ruối dán lên hai bên thái dương chữa nhức đầu. Nhựa mủ của ruối có tác dụng làm đông sữa. Cãnh và rễ thái mỏng sắc uống được dùng làm thuốc thông tiểu chữa bụng trướng, vỏ ruôĩ ngậm chữa sâu răng, đau họng. Nhân dân Cămpuchia còn dùng rễ ruối phối hợp với nhiều vị thuốc khác chữa ho, chữa lao phổi. Ân Độ dùng vỏ mối sắc uống chữa sốt, đi ỉa lỏng, lỵ. Có thể dùng dưới dạng sấy vỏ khô, tán nhỏ mà uống.