Vị thuốc vần S
Sâm Rừng
Sâm Rừng còn có tên là sâm nam, sâm rừng, sâm đất.
Tên khoa học Boerhaavia repens L. (B. diffusa L., B. procumbens Wight, Axia cochin chinensis Lour).
Thuộc họ Hoa phấn Nyctaginaceae.
A. Mô tả cây
Sâm rừng là một loại cỏ có rễ trụ hình thoi mẫm. Thân mọc toả, hình nan hoa xe đạp, bò, màu đỏ nhạt. Dáng và kích thước cành rất thay đổi. Lá mọc đối, hình trái xoan, mẫm, mềm, mép lượn sóng, mặt dưới màu trắng bạc có nhiều lông, mặt trên nhẵn và có màu lục sẫm, dài 2-4cm, rộng 15-30mm. Hoa đỏ tía, mọc thành chuỳ ở kẽ lá hay đầu cành. Cuống nhỏ tận cùng mang 2-5 hoa. Quả hình trụ bai đầu nhỏ lại thành hình thoi dài 3mm, trên có rãnh rộng và sần sùi màu vàng nhạt trông như được phủ một lớp phấn màu vàng nhạt (Hình 632).
B. Phân bố, thu hái và chế biến.
Mọc hoang khắp nơi ờ Việt Nam, nhiều nhất ở quanh nhà, dọc đường xe lửa. Rẽ đào về rừa sạch phơi hay sấy khô.
C.Thành phần hoá học
Trong rễ cây này có tinh dầu, tinh bột và chất gôm-kali nitrat. Basu và Lal (1947, Investigations on Indian Medicinaĩ Plants, Quart. J. Pharma. Pharmacol, Gr. Br. 20: 38, 42) đã chiết được từ cây này một ancaloit có tinh thể gọi là punamavin vì tên cây này ở Ẩn Độ gọi là punamava.
D. Tác dụng dược lý
Được nhiều người nghiên cứu, nhất là ờ Ấn Độ. Rễ cây có tác dụng tăng lượng nước tiểu nhưng với liều cao có thể gây nôn mửa và ra nhiều mổ hôi. Đối với thần kinh có tác dụng trấn tĩnh.
E. Công dụng và liều dùng
Mặc dù mang tên sâm rừng, sâm nam nhung ít thấy dùng trong nhân dân ta. Tại An Độ, rễ này được dùng làm thuốc thông tiểu tiện và nhuận tràng dùng trong cằc bệnh sũng nước (hydropisie), chứng thũng toàn (anasaque), chỏng bụng nước (ascite), các bệnh gan và lá lách, với liều 15g, ngày dùng 2 lẩn. Còn có nơi dùng chữa ho dưới dạng thuốc bôt, thuốc sắc, hoặc pha như pha chè. Nếu pha rượu chì dùng với liều từ 2 đến 5g một ngày.
Chú thích:
1. Theo A. Pételot ở nước ta còn một loài Boerhaavia repanda Willd. (B. sinensis Asch) cùng họ Hoa phấn và cũng mang tên nam sâm, sâm đất. Đây là một loài cỏ mảnh, nhỏ, dòn, cành có thể dài lm hay hơn. Lá mọc đối hình trái xoan, phía đáy lá hình tim, mép lượn sóng rõ rệt và gần như khía tai bèo, dài 3-6cm, rộng 3-5cm. Hoa mọc thành chuỳ dài ở đầu cành, đầu nhánh cuối cùng mang một tán gồm 4-5 hoa có cuống. Quả hình thuôn dài 7mm, rộng 3mm, có 8-10 đường sống sẩn sùi, phân cách nhau bed các rãnh hẹp. Chưa thấy dùng ờ Việt Nam.
2. Cùng mang tên sâm rừng hay quán trọng hay " sâm bòng bong" còn có cây Helminthosíachys zeylanica (L.) Hook (Osmunda zeylanica L., Botrychiwn zeylanicum Sw, Ophiala zeylanica Desv) thuộc họ Lưỡi rắn Ophioglossaceae. Cầy có thân rẽ mọc đứng, rẽ to. Cuống lá dài 20-30cm, dây màu nâu đen nhạt. Phiến lá bất thụ hình ngón tay có mép nguyên lượn sóng hoặc răng cưa thưa và không đều, phần hữu thụ thành bông dài 10-15cm, rộng 0,5-lcm có một cuống mọc từ phần bất thụ ra. Có rải rác ở khắp Việt Nam, Pétetot đã thấy cây này ở vùng rừng Kép, ờ Hà Bắc, Việt Nam. Chưa thấy khai thác ở Việt Nam. ở Malaixia thân rễ được dùng trong nước và xuất khẩu sang Trung Quốc với tên quản trọng làm thuốc bỏ và chữa sốt.