Vị thuốc vần T
Thương Lục
Còn gọi là trưởng bất lão, kim thất nương.
Tên khoa học Phytolacca escalenta Van Hout.
Thuộc họ Thương lục Phytolaccaceae.
A. Mô tả cây
Thương lục là một cây loại thảo, sống lâu năm, cao khoảng lm. Toàn thân cây nhẵn, không có lông. Thân hình trụ tròn, hoặc hơi có cạnh màu xanh lục hoặc hơi pha màu đỏ tím. Lá đơn, nguyên, có cuống, mọc so le, phiến lá hình trứng tròn, đầu nhọn, mép lá nguyên, hai mặt lá nhẵn, dài 10-38cm, rộng 13-14cm.
Cụm hoa hình chùm, dài 15-20cm, gồm nhiều hoa mau 5, màu trắng.
Quả mọng, hình cầu dẹt có 8-10 múi, với vòi nhụy tồn tại,khi chín có màu đỏ tía hay tím đen.
Mùa hoa: Tháng 5 đến tháng 7; mùa quả chín: Từ tháng 8 đến tháng 10.
Thương lục và tác dụng chữa bệnh của nó
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây thương lục mới di thực vào nước ta vào khoảng 10 năm trở lại đây. Trong nước ta, vốn có sẵn một loài có tên khoa học Phytolacca decandra L. nhưng ít phổ biến.
Ngay cây thương lục tuy được di thực từ lâu nhưng cũng ít người sử dụng. Gần đây tại một vài nơi người ta thấy rễ cây hình củ hơi giống người cho nên có người sử dụng làm thuốc bổ với tên “sâm cao ly”. Sự thực rễ cây này phải sử dụng hết sức thận trọng vì có chất độc.
Đào rễ về, cắt bỏ rễ con, rửa sạch để nguyên rễ đem phơi trong đâm mát cho đến khô. Có người muốn cho mùi vị rễ giống mùi vị vị nhân sâm cho nên đem ngâm rễ vào rượu 40° có pha mật ong (lkg rễ ngâm vào 250ml rượu trắng và 250ml mật ong) cho đến khi ngấm đều. Phơi hay sấy khô. Hoặc thái mỏng trước khi phơi hay sấy khô.
C. Thành phần hóa học
Trong rễ thương lục có chất độc phytolaccatoxin C24H3ũ09 rất nhiều muối kali nitrat, axít oxymiristinic và chất saponozit.
Trong rễ cây Phytolacca decandra vốn sẵn có ở nước ta có tinh bột, đường, một glucozit, tanin, một chất saponozit, gôm, chất sáp. Có tác giả còn chiết được một ancaloit gọi là phytolacxin. Trong quả có chất màu anthoxyanozit, axit phytolacxic.
D. Công dụng và liều dùng
Thương lục là một vị thuốc được dùng từ lâu đời trong y học cổ truyền phương đông. Người ta thấy vị thương lục được ghi chép dùng làm thuốc đầu tiên trong bộ sách “Thần nông bản thảo” biên soạn vào năm 200 sau Công nguyên, nhưng được xếp vào loại hạ phẩm nghĩa là có tác dụng nhưng có độc tính.
Theo tài liệu cổ thì vị thương lục có vị đắng, tính lạnh (hàn) có độc. Vào thận kinh. Có tác dụng đại tả thùy ẩm ở phủ tạng, chuyên lợi tiểu tiện, dùng chữa những trường hợp tà khí ở trong bụng, thủy thũng thủy khí, đầy da bụng. Trong trường hợp tỳ hư mà sinh thủy thũng và phụ nữ có thai thì cấm dùng.
Hiện nay người ta thường dùng vị thương lục để chữa những trường hợp phù nề, ngực bụng đầy trướng, cổ đau, khó thở. Ngày dùng 3 đến 4g dưới dạng thuốc sắc, dùng một vị hay phối hợp với nhiều vị khác.
Dùng ngoài đắp lên những mụn nhọt sưng đau, không kể liều lượng.
Đơn thuốc có vị thương lục ghi trong các sách y học cổ truyền
1. Chữa chứng trong bụng có hòn cứng, đau đớn: Lấy bông đắp lên bụng. Giã rễ thương lục tươi vắt lấy nước tẩm vào bông hễ thấy lạnh lại thay. Đắp liên tiếp cho đến khi khỏi.
2. Chữa chứng đau cổ họng: Dùng rễ thương lục nướng nóng, bọc vải chườm vào cổ.
Chú thích:
1. Tại các nước châu Âu, châu Mỹ người ta dùng lá cây Phytolacca decandra giã nát, sào nóng sát lên những nơi ghẻ, hắc lào, rễ được dùng uống với liều 3-4g chữa một số bệnh ngoài da. Rễ có tác dụng gây nôn mửa. Toàn cây này cho nguồn tro chứa nhiều muối kali: tới 60-70% tro là muối kali.
2. Hiện nay ở Việt Nam ta một số người dùng nhầm rễ cây này với tên Nhân sâm làm thuốc bổ. Vậy đặc biệt chú ý tránh sự nhầm lẫn này.