Vị thuốc vần T
Trinh Nữ Hoàng Cung
Còn gọi là: Hoàng cung trinh nữ-Tây nam văn châu lan- Thập bát học sĩ (Trung Quốc), Tỏi Thái Lan. Tên khoa học Crinum lalifolium L. Thuộc họ Thuỷ tiên Amaryllidaceae.
Tên trinh nữ hoàng cung do cây này được dùng để trị bệnh cho những phụ nữ còn trinh tiết được tuyển chọn vào cung vua nhưng không được vua chú ý nên mắc một số bệnh riêng của những phụ nữ sống trong cùng hoàn cảnh.
A. Mô tả cây
Trinh nữ hoàng cung là một loại cỏ, thân hành như củ hành tây to, đường kính 10-15 cm, bẹ lá úp vào nhau thành một thân giả đài khoảng 10-15cm, có nhiều lá mỏng kéo dài từ 80-100cm, rộng 3-8cm, hai bên mép lá lượn sóng. Gân lá song song, mặt trên lá lõm thành rãnh, mặt dưới lá có một sống lá nổi rất rõ, đầu bẹ lá nơi sát đất có màu đỏ tím.
Hoa mọc thành tán gồm 6-18 hoa, trên một cán hoa dài 30-60cm. Cánh hoa màu trắng có điểm màu tím đỏ, từ thân hành mọc rất nhiểu củ con có thể tách ra để trồng riêng dễ dàng.
Trinh nữ hoàng cung và tác dụng chữa bệnh của nó
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Nhân dân thuờng nói rằng trinh nữ hoàng cung chỉ mọc ở Thái Lan, Campuchia nhưng thực tế ở Việt Nam cũng có mọc từ lâu và hiện nay thấy trồng ở cả 3 miển Bắc, Trung và Nam. Ở Việt Nam bộ phận dùng là lá dùng tươi hay phơi hoặc thái nhỏ sao vàng dùng dần. Nhưng ở một số nước người ta dùng cán hoa, thân hành cùa cây, thái nhỏ phơi khô.
C. Thành phần hoá học
Năm 1984, Ghosal (Ấn Độ) đã phân lập và xác định từ cán hoa trinh nữ hoàng cung một glucoancaloit có tên Latisolin. Thủy phân bằng enzym thu được aglycon có tên latisodin (J. Chem. Res., 1983).
Ghosal và Shibnath còn phân lập được từ thân hành lúc cây đang ra hoa pratorimin và pratosin là 2 ancaloit pyrolophenanthrindon mới cùng với những chất đã được biết như pratorimin, ambelin và lycorin.
Năm 1986, Ghosal còn công bố tách được từ trinh nữ hoàng cung một số dẫn chất ancaloit có tác dụng chống ung thư crinafolin và crinafolidin. Năm 1989, Ghosal còn chiết được từ dịch ép của cán hoa trinh nữ hoàng cung 2 ancaloit mới có nhân pyrrolophennanthridin là 2-epilycorin và 2- epipancrassidin.
Một số nhà khoa học Nhật Bản cũng tìm thấy một số ít ancaloit khác từ trinh nữ hoàng cung.
D. Công dụng và liều dùng Từ những năm 1989-1990, nhân dân ta đồn nhau tìm sử dụng lá cây trinh nữ hoàng cung để chữa những trường hợp u xơ, ung thư tử cung (đối với phụ nữ ) u xơ và ung thư tiền liệt tuyến (đối với nam giới ) với cách đùng như sau:
Ngày uống nước sắc của 3 lá trinh nữ hoàng cung hái tươi thái nhỏ ngắn l-2cm, sao khô màu hơi vàng, uống luôn trong 7 ngày, rồi nghỉ 7 ngày, sau đó lại uống tiếp 7 ngày nữa, lai nghỉ 7 ngày và uống tiếp 7 ngày. Tổng cộng 3 đợt uống là 7x3x3 là 63 lá, xen kẽ 2 đợt nghỉ uống, mỗi đợt 7 ngày. Nhiều người chỉ uống nước sắc trinh nữ hoàng cung như trên cũng thu được kết quả tốt.
Nhưng có một số bệnh nhân uống thêm cùng nước sắc trinh nữ hoàng cung nước sắc một “đơn thuốc bổ thận", khi hỏi từ đâu có đơn thuốc này, thì câu trả lời không rõ ràng, nhưng vì tôi được đọc một bản chụp một tờ báo tiếng Việt ở nước ngoài gửi về (không thấy ghi tên, ngày tháng), nhiều người chỉ uống nước sắc trong đơn thuốc này không cùng uống nước sắc trinh nữ hoàng cung mà cũng khỏi cho nên tôi cứ ghi lại ở đây để mọi người cùng theo dõi. Đơn thuốc có 18 vị như sau
Chế viền chi |
8g |
Đảng sâm |
12g |
Quảng bì |
12g |
Hắc đỗ trọng |
12g |
Sơn thù nhục |
8g |
Phục linh |
12g |
Nhục thung dung |
12g |
Câu kỷ tử |
12g |
Liên nhục |
12g |
Thục địa |
12g |
Mẫu đơn |
8g |
Hắc táo nhân |
16g |
Trích hoàng kỳ |
8g |
Trích thảo |
8g |
Ngưu tất |
12g |
Hoài sơn |
12g |
Trạch tả |
12g |