Vị thuốc vần V
Vọng Giang Nam
Còn gọi là cốt khí muồng, dương giác đậu, dã biển đậu, muồng hòe (miền Nam), muống lá giang nam đậu, thạch quyết minh, sơn lục đậu, khế.
Tên khoa học Cassia occidentalis L.
Thuộc họ Vang Caesalpniaceae.
A. Mô tả cây
Vọng giang nam là một cây nhỏ cao 0,60-lm thân phía dưới hoá gỗ. Toàn thân nhẵn, không có lông. Lá mọc so le, kép lông chim chẵn, lá chét dài 4-9cm, mọc đối, hình trứng thuôn, không cuống, phiến lá lệch ở phía cuống, Toàn lá dài 20cm. Hoa ở kẽ lá hay đầu cành, màu vàng nhạt, mọc thành chùm. Quả giáp, dài 6-10cm, rộng tới 7mm, hơi cong hình cung, giữa các hạt hẹp lại làm cho quả trông có dáng gồm rất nhiều đốt nối nhau. Hạt dẹt, hình trứng dài 4mm, rộng 3mm, xếp chồng lên nhau theo chiều dọc. vỏ cứng, nhẵn bóng. Mùa hoa tháng 7-9, mùa quả tháng 8-10
Vọng giang nam và tác dụng chữa bệnh của nó
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây mọc hoang tại khắp nơi ở Việt Nam. Còn mọc tại Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Phúc Kiến, Hà Bắc v.v... tại đây có nơi trồng để làm thuốc), Ấn Độ, Braxin (Nam Mỹ) cũng có. Người ta dùng toàn bộ cây, hay chỉ hái lá, hái hạt về phơi khô. Ở Việt Nam ta chưa chú ý khai thác loài này.
C. Thành phần hoá học
Trong hạt, Heckel đã nghiên cứu thấy: Độ ẩm 8,855%, chất béo và chất màu tan trong clorofoe 1,150%, chất béo và chất màu tan trong ête dầu hoả 1,60%, chất màu và ít tanin 5,022%, glucoza 0,738%, chất pectin, gôm, chất nhầy 15,734%, chất anbuminoit tan 6,536%, chất anbuminôit không tan 2,216%.
Theo Lưu Mê Đạt Phu (1955), trong vọng giang nam có chất antraglucozit gọi là emođin, tanin, chừng 36% chất nhầy, 2,55% chất béo, 4,33% tro. Trong lá cũng có chất emođin, hợp chất hydrat cacbon và flavonozit như vitexin. Toàn cây có tanin, chất béo và chất nhầy. Trong hạt có physcion C16H1205 (/. Am. Pharm. Assoc., 1957, 46, 271; C. A. 1969, 70, 84918m) physcion-1-glucozit, C22H22O10 (Experỉentỉa, 1971, 43), l,8-dihydroxy-2-metylanthraquinon, 1,4,5- trihydroxy-3-metyl-7-metoxy anthraquinon (Experientia 1974, 30, 850), N-metylmorpholin (C. Hình 356. Vọng giang nam - Cassia occidentalisA., 1971, 74, 50512s) galactomannan (/. chem. 1973, 11, 1134). Trong rễ có cassiollin C17H1206, chrysophanol C15H10O4, xanthorin, l,4,5-trihydroxy-2 metoxy - 7methylanthraquinon,C16H1206 islandixin -1,4,5 trihydroxy-2- metylanthraquinon C15H10O5 1,4,5,- trihydroxy -7- metylanthraquinon helminthosporin C15H,005 (Indian J. Chem., 1974, 12, 1042). Trong lá có dianthronic heterozit (C. A., 1969, 70, 84918m). Trong vỏ quả có C-glucozit của apigenin (C. A., 1969, 70, 84918m).
D. Công dụng và liều dùng
Nói chung cây này thấy ít được dùng ở Việt Nam làm thuốc. Tuy nhiên chúng tôi đã có dịp thấy tại Lạng Sơn rnột vị đông y dùng nó với tên thảo quyết minh, dùng cả rễ và hạt, để làm thuốc chữa sốt, không tiêu. Tại Trung Quốc người ta dùng hạt vọng giang nam uống làm thuốc chữa đau bụng đi lỵ, táo bón, ăn uống không tiêu, đầu nhức mắt mờ. Lá tươi giã nát đắp lên các chỗ rắn độc cắn, cua tôm quắp bị thương. Ngày dùng 10-20g dưới dạng thuốc sắc. Vọng giang nam không chỉ được dùng ở các nước châu Á, mà còn được dùng ở các nước khác.
Theo E. Peưot, hạt Cassia occidentalis tươi có độc do một chất toxanbumin (phytotoxin) và cryzarobin (chrysarobin) là một antraglucozit. Khi rang lên hạt sẽ hết độc và được dùng ở châu Phi uống nước thay cà phê gọi là cà phê của người da đen, mùi thơm dễ chịu. Nếu dùng tươi thì có độc.
Thực tế trong năm 1913 ờ ngoại ô Paris (thủ đô nước Pháp) đã xảy ra những vụ ngộ độc ngựa do cho ăn hạt này lẫn với yến mạch (avoine).
Nãm 1924 lại xảy ra vụ ngộ độc nữa cũng do cho ngựa ăn hạt không rang. Khi bị ngộ độc thì viêm ruột và viêm màng óc. Những chất độc khi rang lên sẽ bị phá huỷ cho nên rang lên mới dùng được. Một số tác giả châu Âu khác (Deliouxde Savignac, Dubonnex V.V...) đã nghiên cứu tác dụng chữa bệnh của hạt vọng giang nam mọc ở các nơi khác đã xác nhận hạt này có tác dụng chữa sốt và điều kinh. Tại các nước châu Phi, người ta dùng lá, rễ và hạt.