Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần C

Cần Thăng

10:05 30/05/2017

Limonia acidissima L.

Tên đồng nghĩa: Limonia crenulata Roxb. Schimts limonia L.

Tên khác: Bằng thăng.

Họ: Cam (Rutaceae).

Mô tả

Cây nhỏ, cao 2 - 3m. Cành hình trụ, có lông, sau nhẵn, màu nâu đỏ, có gai ngắn 2 cm. Lá kép lông chim, mọc so le, nhưng thường tụ họp thành túm, dài 3 - 11 cm; cuống lá kép có cánh; lá chét 2-3 đôi, nguyên hoặc hơi có răng tròn, dài 1 - 2,5 cm, rộng 0,5 - 1 cm, gốc hình nêm, đầu tù hay nhọn; gân lá nổi rõ ở mặt dưới; phiến lá có nhiều tuyến.

Cụm hoa mọc ở đầu cành thành chùm tán, có cuống dài 2,5 cm; đài có 4 răng rời, mành; cánh hoa 4, mỏng và có tuyến; nhị 8 rời nhau, dài bằng cánh hoa, chỉ nhị phình ra ở gốc; bầu hình nón ngưọc, 4 ô.

Quả hình cầu, đường kính 1,2 cm, có đài tồn tại; hạt 1 - 4, hình ellip, đầu bằng, bao bọc bởi một lớp cơm nhầy.

Phân bố, sinh thái

Chi Limonia L. ở Việt Nam chỉ có 1 loài cần thăng kể trên. Trên thế giới, loài này phân bố ở vùng nhiệt đới Châu Á, thuộc Ấn Độ, Mianma, Lào và Campuchia. Ở nước ta, cần thăng có thể gặp tại một số tỉnh ven biển, như Quảng Nam, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận,...

Cần thăng thuộc loại cây ưa sáng, có thể chịu hạn tốt. Cây thường mọc rải rác trong các quần hệ rừng thứ sinh, rừng thưa khô hạn vùng ven biển. Cây sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm, đến mùa khô có thể rụng bót một phần lá để thích nghi với điều kiện khô hạn. cần thăng ra hoa quả nhiều hàng năm. Tái sinh tự nhiên từ hạt và cây chồi sau khi bị chặt.

Bộ phận dùng

Quả, vỏ thân, gai, lá.

Thành phần hoá học

Vỏ thân chứa 4 - methoxy - 1 - methyl - 2 - quinolin. Theo Bandara B.M.R và cộng sự (1989); vỏ thân chứa bergapten và psoralen. Bergapten được chứng minh có tác dụng diệt côn trùng Callosobruchus [CAI 15: 252105n].

Năm 1991, Ghosh Parthasarathi và cộng sự đã phân lập được từ quả 2 dẫn chất tyramin là aciđiosimino! và acidissiminin epoxyd cùng với N - benzoyltyramin [CAI 16: 148158a],

Ghosh Parthasaratlii và cộng sự (1994) cho biết quả chứa một tyramin là đihydroxyacidissiminol [benzamid - N - (p - 3, 7 - dimethyl - 4, 6, 7 - trihydroxy - 2 - octenyl) oxy -»(phenethyl)], [CA 122: 7660le].

Wijeratne E.M. Kithoiri và cộng sự (1992) chứng minh cần thăng chứa một coumarin glycosiđ là apiosyl - skimmin và 2 limonoid là acid 1 - (10 —► 19) - abeo - lữ. - acetoxy - 1 op - hydroxy - iso - obacunoic, 3-10 lacton và 7a - limonyl acetat [CA118, 1993: 77025g].

Tác dụng dược lý

Các chất psoralen ở vỏ thân, xantliotoxin và ostenol ở vỏ rễ, và 2, 6 - dimethoxvbenzoquinon ở vỏ quả của cần thăng có tác dụng ức chế sự sinh trưởng của các nấm Aspergillus niger, Celletoírichmn gloeosporioides, Curvuỉaria sp. và Peỉùcilliiim sp. [Bandara B.M.R et al., 1988],

Lá cần thăng chứa tinh dầu có mùi hôi. Thử nghiệm về hoạt tính kháng khuẩn cho thấy tinh dầu tinh khiết ức chế sự sinh trưởng của 4 loài nấm và 4 loài vi khuẩn một cách phụ thuộc vào nồng độ [Gangrade S.K et al., 2002],

Tính vị, công năng

Quả, vỏ cần thăng có vị đắng, lá có mùi thơm, tính mát. Có tác dụng giải nhiệt, làm săn, lợi tiêu hoá và kích thích. 

Công dụng

Quả chín ăn được và được sử dụng nhiều ở Ẩn Độ và ở Campuchia; khi nấu chín, có mùi thơm của dâu tây, nhưng vì có vị chát nên khi ăn thường phải cho thêm đường. Dịch của thịt quà có tác dụng kích thích làm ăn ngon miệng, được dùng trị mụn nhọt ở miệng, và được coi là có tác dụng làm chắc lợi răng, vỏ thân (và cả thịt quả) dùng riêng hay phối hợp với vỏ cây lộc vừng, giã đắp ngoài da trị các vết đốt, vểt cắn của côn trùng và bò sát độc, và còn được dùng uống trị rối loạn chức năng gan và chứng giảm tiết mật, buồn nôn.

Gai (và cả vỏ) nghiền nát, hãm nước uống để cầm máu trong chứng băng huyết. Lá có mùi hồi thơm, được dùng nấu nước uống làm lợi tiêu hoá và trị chướng bụng. Khi trích thân cây, thu được một chất nhựa hơi trong, màu vàng hay nâu. Ở Ẩn Độ, nhựa này được dùng thay gôm Arabic (Võ Văn Chi, 1997: 113).

Ở Ẩn Độ, lá được dùng làm thuốc giảm sự lên men trong ruột, làm thuốc tẩy, giảm tiết mồ hôi và trị rắn cắn (Nadkarmi K.M, 1999: 742). Ở Mianma, vỏ cây cần thăng đưọc tán bột và chế thành bột nhão để làm thuốc mỹ phẩm đắp lên mặt. Bằng đường uống, lá dùng trị động kinh, rễ dùng làm thuốc tẩy, và quả dùng làm thuốc bổ [Perry L.M et al., 371],

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC