Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần N

Nga Truật

14:05 23/05/2017

Nga Truật có tên khác: Nghệ đen, nghệ tím, ngải tím, bồng truật, ngải xanh, bồng nga, bồng dược, nghệ đăm (Tày), sùng meng (Dao), m'gang mơ lung (Ba Na).

Tên nước ngoài: Round zedoary, long zedoary, Cochin-turmeric (Anh); zédoaừe (Pháp).

Họ: Gừng (Zingiberaceae).

Mô tả

Cây thảo, cao 1 -l,5m. Thân rễ hình nón, có vân ngang và khía dọc, mang những củ hình trụ tỏa ra theo hình chân vịt, dày, nạc, có màu vàng nhạt ở trong và những vòng màu xám ở củ già. Ngoài những củ hình trụ, thân rễ còn mang những củ hình trái xoan hoặc hình trứng, màu trắng, có cuống dài và mảnh. Lá hình mũi mác, dài 30 -60cm, rộng 7 - 8cm, không cuống, có bẹ dài ở gốc,đầu nhọn có đốm tía dọc theo gân giữa ở mặt trên, mép nguyên hơi uốn lượn.

Cụm hoa hình trụ, dài 20cm, rộng 5cm, mọc từ thân rễ trên một cán ỏ bên cạnh thân có lá, thường xuất hiện trước khi cây ra lá; lá bắc phía dưới màu lục nhạt viền đỏ ở mép, lá bắc phía ngọn không mang hoa sinh sản, màu vàng nhạt, pha hồng ở đầu lá; hoa nhiều, màu vàng; đài hình ống có lông, 3 răng không đều; tràng có ống dài gấp 3 lần đài, thùy hình mũi mác; bao phấn kéo dài thành cựa chẽ ngang; trung đới dạng bản tròn, ngắn, chì nhị đính với các nhị lép; cánh môi thắt lại ở gốc, lõm ở đầu, màu vàng; nhị lép dính nhau ở nửa dưới; bầu có lông, nhụy lép hình giùi. Mùa hoa quả: tháng 4-5

Nga truật và tác dụng chữa bệnh của nó

Phân bố, sinh thái

Chi Curcuma L. gồm khoảng gần 50 loài, phân bố khắp vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á, Bắc Australia và một số đảo ở Thái Bình Dương. Ở Mianma có 20 loài, Việt Nam 15 loài (Nguyễn Tiến Bân, 1997); phần lớn là cây mọc tự nhiên. Một số loài là cây trồng dể làm gia vị, lấy chất màu và làm thuốc; Nga truật có nguồn gốc từ vùng Đông - Bắc Ân Độ. Cây mọc tự nhiên và được trồng khắp vùng nhiệt đới Nam và Đông - Nam châu Á, bao gồm Ấn Độ, Malaysia, Srilanca, Thái Lan, Philippin, Indonesia, Campuchia, Lào, Việt Nam, đảo Hải Nam, Đài Loan và các tỉnh phía nam lục địa Trung Quốc. Cây còn phân bố cả ở Madagasca. Ở Việt Nam, nga truật phân bố rộng rãi khắp các tỉnh miền núi và trung du, nhất là Hà Giang, Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang, Sơn La, Cao Bằng,... ở phía nam có tỉnh Bình Định và Quảng Nam. Cây còn được trồng rải rác trong nhân dân. Ỏ Hưng Yên (vùng Nghĩa Trai), nga truật được trồng đại trà ở ruộng, để chủ động cho việc cung cấp nguyên liệu.

Nga truật là loài cây thảo, có hệ thống thân rễ phân nhánh phát triển, phần trên mặt đất lụi vào mùa đông (ở miền Bắc) và mùa khô (miển Nam). Cây thường mọc thành khóm, đôi khi trở thành quần thể thuần loại trên đất ẩm, gần bờ suối trong thung lũng hay trên nương rẫy. Độ cao từ vài trăm mét đến 1600m. Cây ưa sáng và có thể hơi chịu bóng. Vào giữa mùa xuân, từ thân rễ mọc lên nhiều thân khí sinh. Song trong một khóm thường chỉ có một thân chính sinh ra từ thân rễ. Phần thân rễ này, thường gọi là "củ cái", chỉ tồn tại được 2 nầm sau tự thối rữa, để lại các phần thân rễ non hơn phát triển thành những "củ cái" mới. Hoa nga truật tự thụ phấn hoặc nhờ côn trùng. Chưa quan sát được quả và cây non mọc từ hạt. Nhưng chắc chắn sự phát triển tự nhiên để mở rộng khu phân bố cây vẫn phải từ hạt.

Việt Nam có nguồn nga truật tự nhiên phong phú. Riêng ở tỉnh Hà Giang, qua điều tra, ước tính có thể khai thác vài ngàn tấn dược liệu một năm.

Cách trồng

Nga truật được trồng chủ yếu trên đất tận dụng ở bờ ao, bò suối, nơi có bóng râm ở trung du và miền núi. Trồng nga truật bằng rễ củ vào mùa xuân, thu hoạch vào mùa đông. Khi thu hoạch chọn củ non có mầm để làm giống. Đất trồng thường không cần cày bừa mà chỉ cần cuốc xới, không lên luống mà trồng theo hốc, mỗi hốc 1 - 2 mầm giống. Khoảng cách trồng 30 - 40 cm cho một cây. Khi cây mọc thỉnh thoảng làm cỏ, xới xáo, tưói phân chuồng, nước giải hoặc phân đạm. Nga truật được trồng chủ yếu theo tập quán quảng canh với năng suất thấp.

Bộ phận dùng

Thân rễ thu hái vào mùa thu đông, rửa sạch thái lát phơi khô. Nếu là thân rễ khô thì đồ nhanh cho mềm, thái lát, tẩm giấm một đêm rồi sao qua (Phương pháp bào chế đông dược, 1965).

Theo Maeda H. (Nhật Bản), bột bào chế từ thân rễ nga truật thí nghiệm trên chuột cống trắng bằng dường uống, có tác đụng tăng cường sự bài tiết mật một cách rõ rệt, đồng thời ức chế nhẹ sự phân tiết dịch dạ dày, thí nghiệm trên chuột nhắt trắng, có tác dụng ức chế tốc độ chuyển dịch của than hoạt trong ruột. Ngoài ra, nga truật còn có tác dụng kích thích tiêu hóa, kiện vị, bài hơi.

Theo tài liệu nước ngoài, tinh dầu nga truật có tác dụng kháng khuẩn, cao cồn từ thân rễ có tác dụng ngừa thai trên súc vật thí nghiệm.

Tính vị, công năng

Nga truật có vị cay, đắng, tính ôn, vào kinh can, có tác dụng hành khí, phá huyết, thông kinh bế, tiêu tích hóa thực.

Công dụng

Trong y học cổ truyền, nga truật được dùng làm thuốc chữa đau bụng, ăn không tiêu, đầy hơi, bế kinh, tích huyết, hành kinh máu đông thành cục. Liều dùng hàng ngày 3 - 6 g dưối dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột. Y học hiện đại lại sử đụng nga truật làm thuốc bổ trong rượu trường sinh (Elixừ đe longue vie) gồm lô hội 25g, long đởm thảo 5g, đại hoàng 2,5g, nga truật 2,5g, phan hồng hoa 2,5g, Polyporus offĩcinalỉs 2,5g. Các vị thái nhỏ ngâm trong 2000ml cồn 60° trong 10 ngày, lọc lấy rượu uống, ngày 2 -5ml. Ở Ấn Độ, nước sắc nga truật phối hợp với hạt tiêu, quế và mật ong dùng chữa cảm lạnh

Bài thuốc có nga truật

1. Chữa tích huyết, hành kinh máu đông thành cục, đau bụng khỉ có kinh hoặc rong kinh ra huyết dặc ri rỉ: Nga truật và ích mẫu mỗi vị 15g, sắc nưóc uống.

2. Chữa nôn ở trẻ bú sữa: Nga truật 4 g, muối ăn 3 hạt, sắc vói sữa cho sôi chừng 5 phút, hòa tan ít ngưu hoàng (lượng bằng hạt gạo) cho trẻ uống.

 3. Chữa cam tích, phân thối khẩn, biếng ăn ở trẻ em: Nga truật 6g, hạt muồng trâu 4g, sắc nước uống.

 

 

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC