Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần T

Thuốc Bỏng

11:05 15/05/2017

Thuốc Bỏng  có tên đồng nghĩa: Bryophyllum calycinum Salisb.

Tên khác: Cây sống đôi, diệp sinh căn, đả bất tử, trưcmg sinh, tầu púa sung (Dao).

Họ: Thuốc bỏng (Crassulaceae).

Mô tả

Cây cỏ, cao 40 - 60 cm. Thân mọc đứng, hình trụ, nhẵn, có đốm tía. Lá mọc đối, đơn hoặc có 3 - 4 lá chét, phiến dày, mọng nước, hình trứng thuôn, mép khía răng tròn; lá có thể nảy mầm ở kẽ các vết khía răng.

Cụm hoa mọc ở ngọn thân theo kiểu xhn hai ngả, dài 15 cm hay hơn; lá bắc nhỏ; cuống hoa rất mảnh; hoa hình trụ, dài 4-5 cm, màu đỏ hoặc vàng cam sẫm hơn ở đầu, mọc thõng xuống trên một cán dài; đài hình trụ chia làm 4 thùy; tràng 4 cánh hàn liền thành trụ, thắt ngang ở phía trên bầu và hàn liền vối bầu ở phần gốc; nhị 8, đính vào giữa ống tràng thành một hàng, chỉ nhị mảnh, bao phấn thuôn; bầu hình thoi, có 4 lá noãn rời nhau, rất nhiều noãn. Quả gồm 4 đại, mở ở mép trong. Mùa hoa quả : tháng 1-3.

Phân bố, sinh thái

Chi Kalanchoe Adans có khoảng 60 loài, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới cổ và nam Phi; ờ châu Á chỉ có khoảng 10 loài, trong đó hầu hết cũng có mặt ở Việt Nam. Cây thuốc bỏng cũng có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới cổ. Hiện nay, cây phân bố ở một số nước thuộc châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam. Ở Việt Nam, thuốc bỏng thường thấy ở một số vùng núi đá vôi và ven biển như Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình, Thanh Hóa. Thuốc bỏng là cây đặc biệt ưa sáng, chịu hạn tốt, thường mọc trên các hốc mùn đá ở vùng núi đá vôi hoặc trên đất cát truông gai và đồi thấp ven biển. Cây thường xanh quanh năm, sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm; hoa nở vào mùa hè hay mùa thu. Tuy nhiên, chỉ những cây trên một năm tuổi không bị cắt tỉa mới có khả năng có hoa quả. Cây tái sinh tự nhiên chủ yêu từ hạt, từ các chồi gốc hoặc thân bị gãy. Cây còn có khả năng tái sinh đặc biệt khác là mọc cây con từ các chỗ khuyết của mép lá.

Cách trồng

Thuốc bỏng ưa sống nơi đất ẩm gần nguồn nước hoặc dưới tán cây. Có thể trồng quanh năm bằng thân rễ hạt nhưng chủ yếu bằng lá. Chỉ cần đạt lá hoặc mẩu lá xuống đất, lấy hòn đất nhỏ chận lên là cây con sẽ nảy mầm từ mép. Thỉnh thoảng có thể bón thêm phân chuồng mục hoặc tưới đạm pha loãng.

Bộ phận dùng

Lá, thu hái quanh năm, dùng tươi.

Tác dụng dược lý

Cao nước và cao cồn thuốc bỏng có tác dụng ức chế các vi khuẩn tụ cầu vàng, trực khuẩn mủ xanh và Streptococcus viridans. Cao cồn có tác dụng mạnh hơn cao nước. Lá thuốc bỏng có tác dụng kháng khuẩn trên các vi khuẩn gram - dương và gram - âm. Ba chất bryophyllin A, bryophyllin B và bersaldegenin - 3 - ạcetat trong cây tươi có hoạt tính độc hại tế bào mạnh in vitro đối với tế bào u KB. Bryophyllin A và bersaldegenin - 3 - acetat còn có tác dụng độc hại tế bào đối vói các tế bào A-549 và HCT-8.

Thuốc bỏng có thể độc đối với gia súc khi ăn khối lượng lớn với hội chứng độc hại thần kinh. Cao methanol lá thuốc bỏng có hoạt tính chống viêm trên chuột cống và chuột nhắt trắng trong các mô hình thực nghiệm : phù do caragenin và những chất trung gian khác, ri dịch protein và ri dịch chất màu trong viêm phúc mạc và di cư bạch cầu, u hạt do caragenin hoặc cấy viên bông, viêm khóp do formaldehyd và phù khớp do dầu thông. Có thể các thành phần có hoạt tính ß - sitosterol và một số alcol béo tham gia vào tác dụng này. Cao methanol lá tươi thuốc bỏng có hoạt tính chống viêm đáng kể trên viêm tăng cảm muộn gây với picryl clorid và oxazolon, và bệnh gút thực nghiệm gây với mononatri urat. Cao lá làm giảm đáng kể hoạt độ của GOT, GPT cũng như nồng độ hydroxyprolin, và làm tăng nồng độ ATP - ase trong huyết thanh.

Tác dụng ức chế trên viêm gây bởi acid arachidonic và glucose oxydase gợi ý là cao lá thuốc bỏng không phải là chất ức chế cyclooxygenase. Cao lá thuốc bỏng có hiệu lực ức chế miễn dịch in vivo, làm nhẹ cơn khó thở ở chuột lang do phản ứng kháng thể kháng nguyên, và ức chế in vitro sự tăng sinh tế bào lympho. Các acid béo có trong thuốc bỏng tham gia một phần vào tác dụng chặn miễn dịch in vivo. Cao methanol của lá cũng có hoạt tính chống loét ở chuột cống trắng và chuột lang, có tác dụng bảo vệ chống thương tổn dạ dày gây bởi aspừin, indomethacin, serotonin, reserpin, ethanol, histamin, acid acetic hoặc stress.

Ở chuột nhắt trắng gây nhiễm với Leishmania amazoniensis, cho uống cao nước lá thuốc bỏng làm giảm có ý nghĩa sự phát triển của thương tổn và số lượng ký sinh trùng có khả năng sống. Cao ethyl acetat và ether dầu hoả của lá thuốc bỏng có hoạt tính kháng đột biến mạnh với nồng độ không độc chống lại sự đột biến đảo ngược gây bởi ethyl - methan - sulfonat ở các chủng Salmonella typhimurium TA 100 và TA 102.

Cao lá thuốc bỏng có tác dụng ức chế hệ thẩn kinh trung ương. Liều 100 mg/kg tiêm phúc mạc kéo dài thời gian giấc ngủ bây bởi pentobarbital, giảm đau gây bởi acid acetic ở chuột nhắt và không có tác dụng này ở thí nghiệm kẹp đuôi, không có tác dụng chống co giật gảy bởi pentetrazol hoặc strychnin. Liều 50 mg/kg gây hạ nhiệt ở chuột nhắt. Liều gây chết của cao lá thuốc bỏng trên chuột nhắt là 3.111,76 mg/kg tiêm phúc mạc. Dịch ép lá thuốc bỏng lọc trong, ổn định bằng cồn ethylic và nhiệt độ, đóng ống hàn kín và tiệt khuẩn, được dùng làm thuốc nhỏ mắt để điều trị viêm kết mạc, đã tỏ ra có tác dụng yếu hơn so với thuốc kháng sinh clorocid, nhưng có khả năng làm mau lên sẹo.

Tính vị, công năng

Lá thuốc bỏng có vị ngọt nhạt, nhớt, hơi chua, tính mát, có tác dụng cầm máu, tiêu viêm, giảm đau.

Công dụng

Lá thuốc bỏng được dùng chữa bỏng, vết thương, đau mắt đỏ, lở ngứa, mặt sưng đỏ, chảy máu, ngộ độc, viêm loét dạ dày, viêm ruột, trĩ nội đi ngoài ra máu. Ngày dùng 20 - 40g, sắc uống trong hoặc đắp ngoài, thường dùng tươi. Trong y học cổ truyền Trung Quốc, lá thuốc bỏng có tác dụng làm săn, tiêu sưng, khử độc, sinh cơ, chữa vết thương do bỏng (lá tươi vò nát đắp tại chỗ), vết thương chảy máu (lá tươi 7 lá, giã nát, thêm rượu và đường, uống), viêm tai giữa cấp tính (lá tươi vò lấy nước nhỏ vào tai). Trong y học Ấn Độ, lá thuốc bỏng sao qua được dùng đắp trị vết thương bầm tím, nhọt và vết cắn của côn trùng độc. Đắp vết thương đụng giập, có hiệu quả tốt ngăn ngừa các hiện tượng sưng tấy, thâm tím và làm mau liền các chỗ rách. Dạng thuốc đắp và bột rắc có tác dụng chữa vết loét.

Lá chế thành bột nhão đắp hàng ngày trên vết thương để kích thích tạo nhu (papilla). Lá thuốc bỏng cũng được dùng dưới dạng dịch ép trị tiêu chảy và bệnh sỏi. Ở Đông Nam Á, công dụng chủ yếu của thuốc bỏng là điều trị nhọt, vết thương bỏng, chốc đầu và bệnh nhiễm khuẩn đường ruột. Ở Indonesia, lá dùng uống làm thuốc lợi tiểu, dùng ngoài tậ lở loét đau lưng, đau chân, đôi khi dùng đắp trị đau mắt hoặc nhức đầu; nước sắc uống tri sốt và phù, cao chiết với nưóc từ bột lá khô chữa trĩ. Lá thuốc bỏng sao khô, có trong thành phần một số chế phẩm phối hợp nhiều vị được dùng đắp lên vết loét trong bệnh phong và điều tri những rối loạn về vận động; dùng dịch ép lá xoa lên trán làm giảm sốt.

Ở Malaysia, lá vò nát đắp lên trán tn nhức đẩu và đắp lên ngực trị ho và đau. Ở Brunei, nước hãm lá uống trị sốt. Ở Philippin, lá là thuốc làm săn, kháng khuẩn và tri sâu bọ cắn. Lá tươi giã nát đắp lên vết bỏng và trên nhọt. Dịch ép lá trị tiêu chảy, lỵ, bệnh dịch tả và lao phổi. Lá cũng được dùng làm thuốc đắp nóng trị sai khớp, chai chân tay. Ở Papua Niu Ghinê, lá non thuốc bỏng hơ nóng và đặt trên vết lở loét, hoặc dùng làm thuốc đắp nóng trị nhọt, lở loét, sưng tấy. Ở Thái Lan, Lào, Campuchia, lá tươi dùng ngoài trị bỏng, vết thương, chốc đẩu, nhọt, bệnh ngoài da, chai chân tay, và điều trị viêm mắt, đờm rãi, thấp khớp, đau dây thần kinh. Ở tây Phi, dịch ép lá thuốc bỏng là thuốc lợi tiểu và diều trị đau tai, viêm mắt. Lá được chà xát hoặc buộc lên đầu trị nhức đầu và rễ được dùng làm thuốc trị ho. Ở Brasil, lá là thuốc làm dịu và làm mát trên mặt bị sưng do viêm đau dây thần kinh hoặc đau răng. Ở Puerto Rico, dịch ép lá diều trị viêm thận cấp. Nước ngâm lá thuốc bỏng dùng tắm để điều trị thiếu dinh dưỡng.

Bài thuốc có thuốc bỏng

1. Chữa mẩn ngứa : Lá thuốc bỏng, nghể răm, lá ké, bổ hòn, nâu nước xông và tắm. Kết hợp dùng lá ké sắc uống hoặc lá ké tán bột, mỗi lần uống 8g với rượu ngâm đậu đen.

2. Chữa lỵ, trĩ : Lá thuốc bỏng và rau sam, mỗi vị 5 - 6g nhai sống hay sắc uống. Nếu lòi đom và lỏ hậu môn thì nấu nước bồ kết ngâm rửa và giã lá thuốc bỏng đắp.

3. Chữa bỏng lừa, bâng nước : Lá thuốc bỏng giã nhỏ, thêm rượu cho ướt, đắp lên vết thương, cách 2 giò thay một lần.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC