Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần T

Trầu Không

09:05 16/05/2017

Trầu Không có tên khác: Trầu cay, trầu lương, thổ lâu dằng.

Tên nước ngoài: Betel pepper, betel - leaf, vine pepper (Anh); poivrier bétel, bétel, chavique bétel (Pháp).

Họ: Hồ tiêu (Piperaceae).

Mô Tả

Dây leo bám. Cành hình trụ, nhẵn, có khía dọc, bén rễ ở những mấu. Lá mọc so le, hình tim tròn, gốc đôi khi hơi lệch, đầu nhọn, dài 10-13 cm, rộng 4,5 - 9 cm, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, gân nổi rất rõ ở mặt dưới; cuống lá có bẹ kéo dài.

Cụm hoa mọc buông thỏng ở kẽ lá thành bông ngắn; lá bắc tròn hoặc hình trái xoan; hoa dực dài có cuống có lông, nhị 2, chỉ nhị ngắn; hoa cái dài khoảng 5 cm, cuống phủ lông dày, bầu có lông ở đỉnh. Quả mọng, tròn và có lông ở đỉnh. Toàn cây có tinh dầu thơm, cay. Mùa hoa quả : tháng 5-8.

Phân bố, sinh thái

Trầu không có nguồn gốc ở miền Trung và Đông Malaysia; được trồng từ 2500 năm trước, sau lan sang Madagasca và Đông Phi. Ở Trung Quốc, trầu không cũng được ghi chép từ đời nhà Tần 618 - 907 sau Công nguyên. Đến đầu thế kỷ 15, cây bắt đầu được đưa sang châu Âu. Ngày nay, trầu không không còn gặp ở trạng thái hoang dại; mà đã được trồng phổ biến khắp các nước nhiệt đới ở vùng Nam Á và Đông Nam Á như Ân Độ, Srilanca, Malaysia, Thái Lan Indonesia, Philippin, Campuchia, Việt Nam, Lào, Nam Trung Quốc và đảo Hải Nam (Stepheíi, p. Teo & R. A. Banka, 2000; PROSEA, Nol6 - Stimulants, p.102 - 106). Ở Việt Nam, trầu không cũng đã được nhắc đến trong truyện cổ "Trầu - Cau" từ thời các vua Hùng, cách đây khoảng 2000 năm. Hiện nay cây được trổng ở khắp nơi (trừ vùng núi cao lạnh, trên 1500 m) như vườn các gia đình, trang trại (ở miền Nam) và cả trên các cánh đồng. Việc trồng trầu không ở Việt Nam cũng như ở các nước châu Á khác thường gắn với tục ăn trầu của người dân.

Trầu không thuộc loại cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng; sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm, nhiệt độ trung bình từ 22 đến 26°C; lượng mưa 2000 - 3500 mm/năm (hoặc trên 4000 mm/năm ở Malaysia). Trầu không thích nghi với các loại đất giàu chất hữu cơ, có thành phần sét cao, với pH từ 6 đến 7. Do đặc điểm của loại cây leo bám, nên trồng trầu không phải có giá thể (thân cây gồ, cây cau, tường nhà) hoặc có giàn đỡ. Cây trồng được 3-4 năm mới thấy có hoa quả; hiện chưa quan sát được cây con mọc từ hạt, song trầu không lại có khả năng tái sinh dinh dưỡng rất khỏe. Trầu không là một cây trồng quan trọng. Trải qua lịch sử lâu đời về trồng trọt, hiện nay, quần thể trầu không có nhiều giống khác nhau. Ở Viện thực vật học quốc gia Ân Độ người ta đã thu thập được 85 loại trầu không. Ấn Độ là nước trồng trầu không nhiều nhất thế giới (khoảng 50.000 ha), sau đến Bangladesh (12.700 ha). Riêng Thái Lan, sản lượng trầu không hàng năm dành cho xuất khẩu đến 4500 tấn, tương dương 3,7 triệu đô la Mỹ.

Cách trồng

Trầu không được trồng bằng dây vào mùa xuân. Cắt đoạn thân bánh tẻ dài 40 - 50 cm, có rễ ở đốt, vùi sâu 2/3 xuống cạnh bể nước, chân tường hoặc nơi có ẩm thường xuyên. Cần làm giàn hoặc cho cây leo bám lên tường. Luôn tưới đủ ẩm, thỉnh thoảng bón thêm vôi bột cũ.

Bộ phận dùng

Lá thu hái quanh năm, dùng tươi. Còn dùng rễ.

Tác dụng dược lý

Cao lá và tinh dầu trầu không có hoạt tính ức chế in vitro các chủng vi khuẩn : tụ cầu vàng, phế cầu, Staphylococcus albus. Bacillus subtilis, B. anthracis, liên cầu tan máu, Escherichia coli, Salmonella typhi, phảy khuẩn tả, Shigella flexneri, Sh. shigae, Proteus vulgaris, Sarcina lutea và Envinia carotovora, các chủng nấm : Candida albicans, c. stellatoides, Aspergillus niger, A. flavus, A. oryzae, Curvularìa lunata, Fusarium oxysporum và Rhizopus cans. Hoạt tính diệt nấm có thể so sánh vói resorcinol. Nước cất lá có tác dụng ức chế sự phát triển của trực khuẩn lao in vitro trong thử nghiệm pha loãng với nồng độ ức chế thấp nhất 1:5000.

Trầu không có tác dụng kháng Entamoeba histolytica phân lập từ bệnh phẩm. Tinh dầu diệt động vật nguyên sinh Paramaecium caudatum với độ pha loãng đến 1:10.000. Trầu không có tác dụng diệt nấm mạnh đối với 24 chủng Trichophyton rubrum, 3 chủng T. mentagrophytes, 3 chủng T. tonsurans, 1 chủng T. verrucosum, 4 chủng Microsporitm canis, 2 chủng M. gypseum và 2 chủng Epidermophyton floccosum.

Trầu không có tác dụng chống co thắt trên mô cơ trơn, ức chế sự tăng quá mức của nhu động ruột, gây trung tiện, có tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương ở động vật có vú. Liều chết có tác dụng gây mê sâu và gây chết sau vài giờ. Trầu không đã được đánh giá về tác dụng làm giảm trạng thái căng thẳng về thần kinh ở người và có tác dụng tốt trôn bệnh nhân hen phế quản.  Piperbetol, methylpiperbetol, piperol A và piperol B, phân lập từ trầu không, ức chế đặc hiệu sự kết tập tiểu cầu thỏ gây bởi yếu tố hoạt hóa tiểu cầu một cách phụ thuộc vào nồng độ. Liều ức chế IC50 của các chất trên và ginkgolid B vào khoảng 18,2 ; 10,6; 114,2; 11, 8 và 4,8 ^mol/lít, tương ứng. Hoạt lực ức chế của ginkgolid B bằng khoảng 2,8; 1,2; 22,8 và 1,4 lần lớn hơn của piperbetol, methylpiperbetol, piperol A và piperol B. Các kết quả nghiên cứu cho thấy piperbetol, methylpiperbetol, piperol A và piperol B là những chất đối kháng với thụ thể của yếu tố hoạt hóa tiểu cầu in vi tro. Cao cồn cuống lá trầu không cho chuột cống trắng cái uống 4 liều khác nhau (250 - 1000 mg/kg/ngày), trong những ngày 1-10 sau khi giao hợp, có tác dụng chống làm tổ phụ thuộc vào liều. Với liều uống lg/kg, tỷ lệ ức chế làm tổ 90%. Tác dụng chống làm tổ do hoạt tính kháng steroid của cao trầu không. Đồng thời trọng lượng tử cung giảm, và cùng với tác dụng chống làm tổ, có thể trầu không tác động đến sự tiết hoặc việc sử dụng progesteron. Cao cồn cuống lá trầu không được cho chuột cống trắng đực uống với liều 800 - 1500 mg/kg, và cho chuột nhắt trắng đực uống với liều 50 - 100 mg/kg trong 60 ngày liên tục để nghiên cứu về tác dụng trên khả nãng sinh sản và những thông số về hormon nam tính khác trồn các cơ quan sinh sản nam.

Những kết quả nghiên cứu gợi ý về tác dụng ức chế sự sinh tinh trùng hoặc kháng androgen của trầu không ở chuột. Trong thử nghiệm về tác dụng gây biến trạng gen gián phân, sự trao đổi chéo, và đột biến ngược trên những chủng lưỡng bội của Saccharomyces cerevisiae cho thấy cao nước lá trầu không không gây sự đột biến ở men khi không có sự hoạt hóa chuyển hóa, không làm tăng tần suất những thể biến trạng, thể tái hợp và thể đột biến ngược, không gây chết tế bào và không ức chế sự phân chia tế bào. Việc đánh giá hàm lượng DNA ỏ nhân các tế bào tuyến ở dạ dày chuột nhắt trắng in situ bằng phương pháp đo quang tế bào cho thấy sự biến đổi có ý nghĩa của hàm lượng trung bình DNA sau thời gian dài (6-10 tháng) nhai lá trầu không với hạt cau và vôi tôi. Cao nước lá trầu không chế thành thuốc mỡ có tác dụng làm vết thương ở thỏ chóng lành do thúc đẩy nhanh sự co và sự biểu mô hóa vết thương, ít ảnh hưởng đến sự tạo mô hạt. Mỡ trầu không chứa 1% cao trầu không đã được áp dụng cho 18 bệnh nhân bỏng vôi từ độ hai tới dộ ba. Kết quả 7 bệnh nhân bỏng 6 - 18% khỏi sau 10 - 15 ngày, 7 bệnh nhân bỏng 10 - 40% khỏi sau 25 - 38 ngày, 4 bệnh nhân bỏng 25 - 46% khỏi sau 54 - 124 ngày.

Mỡ trầu không 1% có tác dụng tốt trị bỏng độ hai nông và sâu, và có tác dụng hạn chế đối với bỏng độ ba. Dùng uống, trầu không làm giảm sốt ở một số bệnh nhân bỏng. Thuốc đắp không gây xót và phản ứng phụ khác. Tinh dầu trầu không có tác dụng kích ứng trên da và niêm mạc, và gây phản ứng viêm khi tiêm dưới da hoặc bắp thịt. Lá trầu không có tác đụng chống oxy hóa; đun nóng với dầu, mỡ, bơ, ngãn chặn được sự ôi khét. Tác dụng này do phenol, dặc biệt là hydroxy - chavicol có trong trầu không. Ảnh hưởng vẩ mô bệnh học của việc nhai lá trầu không, hạt cau, vói thuốc lá đã được nghiên cứu trên chuột nhắt trắng với mô hình niêm mạc tuyến dạ dày. Cho chuột uống liên tục trong 5 tháng cao chiết từ thuốc lá vói lá trâu không, hạt cau và vôi vói liều thường dùng của người nghiện nhai trầu, nhận thấy có hiện tượng dị sản ruột rõ rệt ỏ tất cả chuột. Tác dụng này chủ yếu do thuốc lá; trầu không và vôi có tác dụng bảo vệ làm giảm hiện tượng dị sản và loạn sản do thuốc lá. Các kết quả thí nghiệm làm sáng tỏ nguyên nhân của hiện tượng người nhai trẩu thường xuyên với thuốc lá khối lượng lớn dễ mắc bệnh ung thư.

Tính vị, công năng

Trầu không có vị cay nồng, mùi thơm hắc, tính ấm, vào các kinh : phế, tỳ, vị, có tác dạng trừ phong thấp, chống lạnh, hạ khí, tiêu đờm, tiêu viêm, sát trùng.

Công dụng

Trầu không được dùng chữa hàn thấp nhức mỏi, đau bụng đầy hơi, vết thương nhiễm trùng có mủ sưng đau, hen suyễn khi thời tiết thay đổi, dòm nhiều khó thở, cảm mạo, bỏng, mụn nhọt, hắc lào, mày đay, ghẻ ngứa, sâu kiến đốt, viêm quanh răng, viêm tai, viêm họng. Ngày dùng 8 - 16g, dưới dạng thuốc sắc. Dùng ngoài, đắp lá tươi giã nát hoặc ngâm lá với nước để rửa. Lá trầu không và gừng sống ép lấy nưóc uống chữa ho, khó thở, đầy bụng. Nước ép lá trầu không nhỏ vào tai chữa đau tai. Súc miêng hàng ngày với nước có dịch ép lá trầu không phòng dược viêm họng, có tác dụng hỗ trợ các thuốc trị bệnh bạch hầu. Lá trầu không và lá ráy, giã nhỏ, hơ nóng, đắp chữa sưng tấy. Trầu không (3-5 lá), hạt cau (1 hạt), phơi khô, tán bột rắc làm thuốc cầm máu. Lá trầu không (2 - 4g), nhai nuốt nước chữa đau bụng lạnh dạ, tiêu chảy, nôn mửa, không tiêu. Lá trầu không vò đắp chữa hắc lào, mày day, ghẻ ngứa, sâu kiến đốt; nếu giã nát hòa với rượu bôi lại chữa bỏng; Phụ nữ có thai không nên dùng.

Ấn Độ, lá và tinh dầu trầu không được đùng điều trị các bệnh xuất tiết, bệnh phổi và làm thuốc đắp, thuốc súc miệng hoặc thuốc ngửi trong bệnh bạch hầu. Lá trầu không có trong thành phần chế phẩm thuốc cổ truyền Ân Độ phối hợp với một số dược liệu khác tậ hen phế quản. Thuốc hoàn bào chế từ rễ trầu không, thủy xương bồ và sen được dùng trong 10 ngày liền từ ngày đầu hành kinh để điều trị đau kinh. Ở Indonesia, lá trầu không nghiền nát có trong thành phần một thuốc đặt âm đạo mà người phụ nữ thường dùng 4-11 ngày sau khi sinh COQ.

Bài thuốc có trầu không

1. Chữa cảm mạo: Dùng lá trầu không đánh gió, xát ở xương sống từ trên xuống dưới.

2. Chữa vết thương:

a) Lá trầu không, lá thanh táo, lá cỏ răng cưa, lượng bằng nhau, giã nát đắp.

b) Lá trầu không tươi (40g) rửa sạch, đun với hai lít nước sôi trong 15-20 phút. Để nguội, gạn lấy nước trong, cho phèn phi (8g) vào, đánh tan, rồi rửa.

3. Chữa bỏng: Lá trầu không phơi khô, tán bột, chiết xuất bằng phương pháp ngấm kiệt, cô thành cao đặc, rồi pha chế vói vaselin thành thuốc mỡ 1% bôi hàng ngày.

4. Chữa mụn nhọt: Lá trầu không, lá thồm lồm, hoa dâm bụt đều bằng nhau, giã nát đắp.

5. Chữa đái nhắt: Rễ trầu không (hoặc thân, lá), rễ cau, mỗi vị lOg Sắc uống ngày một thang. Dùng vài ngày đến khi khỏi.

6. Chữa viêm chân răng có mù: Lá trầu không, nấu cao bôi.

7. Chữa sai khớp, bong gân: Lá trầu không 12g, nghệ già 20g; lá cúc tần, lá xạ can, mỗi vị 12g. Giã nát, trộn với một ít giấm, bọc gạc đắp lên chỗ sưng đau, 2-3 ngày thay băng một lần.

8. Chữa vết thương, bòng: Lá trầu không tươi, hành tươi, tỏi tươi, mỗi vị 300g; lá ót tươi 200g, mật lợn 1 lít. Hành tỏi bỏ vỏ, cùng với trầu không, lá ót giã nhỏ, cho nửa lít nưóc nấu kỹ, lọc 2 - 3 lần, cô còn khoảng 300 ml. Cho vào 1 kg đường đun thành cao lỏng rồi cho mật lợn vào canh kỹ, đựng vào lọ kín. Ngày bôi một lần.

9. Thuốc xoa bóp (đánh gió) chống say nắng: Lá trầu già 5 lá, tóc rối 15g, dầu hỏa (loại dầu trắng trong) 5 ml. Giã nát lá trầu, trộn với dầu hỏa, tóc rối, gói vào vải mềm. Xát lên ngưòi theo chiều dọc cơ thể từ trên xuống, chủ yếu là phần ngực bụng và thăn lưng.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC