Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần C

Cây Gáo

10:05 11/05/2017

Cây Gáo Tên khoa học Sarcocephalus cordatus Miq.

Thuộc họ Cà phê Rubiaceae.

A. Mô ta cây

Cây gỗ to cao, cành non màu nâu đậm, nhẵn, đỉnh. Hoa tập trung thành hình đầu, đơn độc ở sau màu xám trắng. Phiến lá hình trái xoan, dài đầu cành. Hoa vàng hay trắng vàng, mùi thơm. Đài 5, tròn ở đỉnh, nhẩn, ống dài nhãn, ngắn. Tràng 5, hình bầu dục ngược, nhẵn,' ống tràng hơi có lông ở họng. Nhị 5, đính vào họng tràng, chỉ rất ngắn, bao phấn tù ở đỉnh. Bầu 2 ô, nhiều noãn. Quả dính lại với nhau thành một khối, hình cầu, mỗi quả 2 ô, mỗi ô chứa 5-8 hạt. Hoa nở vào tháng 3, quả chín vào tháng 7 .

Cây gáo và tác dụng chữa bệnh của nó

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Cây phân bố ở khắp nước ta, nhiều ở miền Nam. Thường thích ẩm và thấy mọc ở khe suối, chân đồi. Thường nhân dân bóc vỏ cây dùng tươi hay phơi khô dùng dần. Có nơi lấy cả gỗ, chẻ nhỏ phơi khô, có màu vàng nhạt vị rất đắng. Ở nước ta có nơi khai thác vỏ và gỗ cây Sarcocephaỉus officinalis Pierre với tên Hoàng bá (thực tế là cây khác-xem vị này)

Tại vùng Tây châu Phi thuộc Xuđẫng người ta dùng vỏ cây Sarcocephalus esculentus Afz với tên đuanđakê (douandake) làm thuốc bổ, chữa sốt gần như vỏ cây canhkina do đó vỏ cây này còn mang tên vỏ canhkina châu Phi. ở nước Ghinê người ta còn dùng vỏ cây s. pobeguini.

C.Thành phần hóa học

Chưa thấy tài liệu nghiên cứu. Theo Heckel và Schlagdenhauffeen (1883- 1885) trong vỏ cây Sarcocephalus esculentus có chứa ancaloit tôn là dounkakin nhưng nhiều tác giả tìm lại không thấy (Em. Peưot-Matières premières usuelles du règne végétal, 1943-1944, tome 2, 2062)

D. Công dụng và liều dùng

Vỏ gáo được nhân dân dùng làm thuốc chữa sốt dưới dạng thuốc sắc với liều 10-16g. Có thể dùng gỗ gáo thái mỏng, cũng sắc như vỏ gáo. Đơn thuốc có vỏ gáo chữa xơ gan cổ trướng Vỏ gáo, cỏ sữa lớn lá, cỏ xước toàn cây. Ba vị bằng nhau, mỗi vị 10g. Sắc uống trong ngày. Dùng liển trong 10-15 ngày (Kinh nghiệm nhân dân). Gỗ gáo được đóng đồ đặc thông thường.

Chú thích:

Ở nước ta còn một cây khác cũng tên là gáo hay phây vi, hoặc thkeou có tên khoa học là Anthocephaỉus indiens A. Rich, cùng họ Cà phê (Rubiaceae). Đây cũng là cây gỗ lớn, mọc thẳng đứng tán hình chóp. Cành non có cạnh, màu nâu sẫm, sau ừòn, màu xám. Lá hình trái xoan, thuôn hay hình trứng, nhọn đầu, bóng và nâu đậm ờ mặt trên, nâu sáng ở mặt dưới, dai cuống lá dai, mặt trên phẳng, lá kèm hình giáo dỗ rụng. Hoa tập trung thành hình đầu, tròn, đơn độc ở đẩu cành. Hoa màu da cam. Đài 5, tù; nhẵn, tràng 5, nhẵn, tiền khai lợp, ống tràng hẹp, nhẫn hơi loe ra ờ phía trên, nhị 5, chỉ nhị rất ngắn dính vào họng tràng, bao phấn có mũi dài. Bầu có 4 ô đỉnh, ở gốc thì 2 ô, nhiều noãn. Quả khô, dai gổc hơi nạc. Hạt màu đen nhạt, có cạnh phôi cuộn, nội nhũ nạc. Hoa nở vào tháng 3, quả chín vào tháng 9-10. Một số thành phố dùng trổng làm bóng mát, gỗ màu trắng dùng xây dựng hay đóng đồ đạc. Một số vùng như Quảng Nính (Tiên Yên) dùng sắc vỏ chữa sốt, chữa ho, thuốc bổ. Tại Ân Độ nhân dân cũng dùng vỏ làm thuốc và thuốc bổ. Lá sắc dùng súc miệng, quả chát dùng chữa đi ỉa lỏng, vỏ còn dùng nhuộm đen, màu bền. 

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC